au bốn ngày sửa chữa và tu bổ, chiến hạm Caine được lệnh rời bến để thực tập vét mìn trong vùng biển Oahu, thuộc quần đảo Hạ Uy Di. Khi đọc xong công điện Willie mang đến, hạm trưởng De Vriess tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi:- Vét mìn hả? giống như ông bạn Queeg của chúng ta đến thay tôi đúng lúc.- Thưa hạm trưởng, điều này có phải là chúng ta sẽ có công tác vét mìn thực sự trong tương lai gần có phải không?- Có thể vậy.- Thưa hạm trưởng, từ trước đến giờ chiến hạm đã thực sự tham gia vét mìn lần nào chưa?- Chắc chắn là có rồi, vài trăm lần với mìn giả thôi. Lạy Chúa, thực sự chưa bao giờ có trong một cuộc hành quân nào.De Vriess bước ra khỏi giường ngủ, vói tay lấy cái quần dài và nói tiếp:- Keith, tôi thích công tác vét mìn lắm, nếu có ai giải quyết cho tôi một vấn đề nhỏ.- Thưa hạm trưởng, vấn đề gì vậy?- Ai vét mìn trước một tàu vét mìn. À, anh mời giùm Steve Maryk đến đây gặp tôi. Và nói với Whittaker tôi muốn có tách cà phê.- Thưa hạm trưởng, tôi nhận rõ.- Bảo Whittaker, không phải cà phê nấu từ sáng sớm đâu nhé. Cà phê mới vừa pha.- Thưa vâng.Roland Keefer xuống chiến hạm ăn chiều. anh ta mang cho Willie một số thư gởi đến khu cư xá sĩ quan độc thân. như thường lệ, Willie bóc ngay thư của May để đọc trước. cô đã trở lại đại học trong học kỳ mùa thu. Đây là một hy sinh lớn, vì rằng trong suốt mùa hè vừa qua Marty Rubin đã giúp cô có việc làm ở đài phát thanh vào giữa trưa và cô có thể tiếp tục làm ở đó sau mùa hè. Tiền trả hàng tuần vào khoảng một trăm đô la.“Anh yêu dấu, nhưng em chẳng màng. Em càng học, càng nghiên cứu, em càng cảm thấy những tham vọng trước đây càng giảm bớt. chỉ năm ngoái thôi, em tin chắc rằng em chẳng muốn gì cả trong cuộc sống ngoại trừ trở thành một ca sĩ thượng thặng tiền lương cao nhất. lúc đầu, em coi thường các cô gái em gặp ở trường Hunter vì bọn họ chẳng ai kiếm được một xu nhỏ nào. nhưng rồi em nhưng dường như tự hỏi, liệu em bỏ cả ngày lẫn đêm cho đồng tiền thì có hợp lý hay không. em thích ca hát, em nghĩ vậy, em luôn luôn muốn ca hát. Vì vậy cho đến khi nào em cần tiền, em sung sướng nhận một việc làm lương vừa phải để đổi lấy cái thích thú hơn là những công việc nhàm chán trong văn phòng ngột ngạt. nhưng em biết em chẳng bao giờ trở thành ca sĩ hạng nhất – vì rằng như anh đã biết em không có một giọng hát điêu luyện, một điệu bộ thích hợp và ngay cả, không có dáng vẻ khả ái (anh à, thực sự em không có cái dáng đó đâu). Ngay bây giờ, em nghĩ em chỉ muốn chài một anh chàng tốt bụng dại gái nào đó, giúp em có vài đứa con nhỏ, chăm sóc chúng và để em yên tâm đọc sách.Anh yêu dấu, anh đã thắng một điểm rồi đó. Dickens hay dữ dội. thức suốt đêm để đọc Bombrey & tử, để làm bài điểm sách dù rằng tuần tới cũng chưa tới hạn nộp bài. Vì thức đêm nhiều, bây giờ mắt em có những quầng đen chập chờn. rất mừng là anh không có ở đây để gặp và nhìn thấy cặp mắt gớm ghiếc của em.Nói dối anh vậy thôi, em mong gặp anh lắm! anh bao giờ mới trở về nhà? Cuộc chiến tranh này bao giờ chấm dứt nhỉ? Sau khi nước Ý đầu hàng, em nghĩ em sẽ gặp lại anh một ngày gần đây thôi. Nhưng hình như chúng ta lại bị lún sâu vào một cuộc chiến tranh mở rộng khác. những tin tức của Châu Âu thường rất lạc quan nhưng em vẫn ngại nhất là mặt trận Thái Bình Dương. Và có thể cho em là đứa không có tinh thần ái quốc, nhưng em thực sự vui mừng tột độ khi biết tin anh chưa đến được chiếc Caine.Em yêu của anh, May”Roland lên tiếng khi mọi người ngồi vào bàn ăn chiều:- Hình như tôi đến đây để từ biệt các bạn trong một thời gian. Bộ tham mưu chuẩn bị lên hàng không mẫu hạm Yorktown ngày mai. Đoán chừng đô đốc muốn kiếm tiền hải vụ.Nét mặt của Tom Keefer tối sầm lại. anh ta thả dao và nĩa xuống bàn tỏ vẻ tức giận nói:- Anh có biết không, đấy là một hàng không mẫu hạm mới tinh.De Vriess nhăn mặt và nói:- Tom, có gì làm anh phật lòng lắm phải không?Maryk nói thêm vào:- Bộ anh không thích tàu vét mìn phải không?Tất cả các sĩ quan đều cười lời bông đùa cũ rích đối với vị sĩ quan truyền tin.- Quỷ thần ơi! Tôi thích đụng độ, cho đến khi tôi hy sinh đến giọt máu cuối cùng.Adams nói:- Anh xuống chiến hạm quá trễ. Trước đây, chúng tôi đã tham gia vô số những trận hải chiến.Keefer nói:- Đúng, anh đã qua một vài công tác tạp nhạp. tôi thích thực sự chiến tranh, chứ không phải công tác tạp dịch. cuộc chiến tranh ở Thái Bình Dương thực sự chỉ là những cuộc giao tranh của các phi cơ. Mọi công tác khác đều đặn như công việc của anh bán sữa hay anh thư ký kế toán. Tất cả mọi chuyện không có gì chắc chắn và các quyết định đều phát xuất từ hàng không mẫu hạm.Hạm trưởng góp ý:- Tom, tôi có vài người bạn ở trên hàng không mẫu hạm Saratoga cho tôi biết công việc thật bình thường và rất đều đặn.Keefer bày tỏ:- Chiến tranh bao gồm 99% là những công việc thường lệ, thường lệ đến độ những con khỉ được huấn luyện cũng làm được. nhưng một phần trăm còn lại là những cơ hội và hành động sáng tạo mà lịch sử thế giới đang chờ đợi đều tập trung trên hàng không mẫu hạm. đấy đúng là phần tôi muốn đóng góp. Cho nên, chú em yêu quý không muốn gì hơn là cứ trùm chăn cho kín ở Hawaii cho đến khi chiến tranh chấm dứt.- Tom, anh nói thật chí lý – Roland thêm vào một cách vui vẻ.- Thì người ta kiệu lên hàng không mẫu hạm, còn tôi thì phải tiếp tục trên chiếc Caine.Maryk nói:- Ăn thêm ít gan bê đi TomNgười sĩ quan đệ tam này vóc dáng như một võ sĩ, điệu bộ chững chạc như anh trung sĩ huấn luyện viên có cái đầu tròn như đầu viên đạn, mũi to và ngắn, tóc cắt ngắn, nhưng lại có cái cười ngây thơ dễ cảm, dễ thương làm thay đổi toàn bộ vóc dáng cục mịch của anh.Hạm trưởng lên tiếng:- Tại sao anh không gởi thêm một đơn xin thuyên chuyển nữa. tôi sẽ ký thuận cho anh ngay tức khắc.- Tôi không thích gởi đơn xin gì nữa. chiến hạm này đã được xem như loại bỏ đi, thủy thủ là những người bị hải quân lãng quên và được đặt tên theo nhân vật bị loài người nguyền rủa. định mạng đã đặt tôi vào chiếc Caine. Đây là một nơi để tôi chuộc lại tội lỗiHạm phó Gorton vừa nói vừa liếc nhìn vào cái dĩa đầy gan:- Có tội lỗi nào hay không Tom? Hãy kể cho chúng tôi nghe với.Tom phá lên cười, hướng về phía hạm phó nói:- Những tội lỗi mà tôi vừa nói đến có thể làm cho các bà mẫu trần truồng trên các bức tranh mà hạm phó sưu tập treo đầy trong pho`ngf đỏ mặt lên.Hạm trưởng nhìn Keefer một cách thán phục và nói:- Đấy là do đầu óc nghệ sĩ của anh mà thôi. Tôi chẳng bao giờ nghĩ đến Caine biểu tượng cho một nhân vật nào.- Thưa hạm trưởng, chữ “e” thừa thãi ở sau cùng làm cho hạm trưởng bị lạc hướng. chúa luôn che giấu một phần ý muốn của ngài, vì ngài chính thực là một nghệ sĩ hoàn hảo.Maryk nói:- Hay thật! hay thật! tôi rất thích thú ở lại ăn chiều ở tàu. tom, đã lâu anh không nói nhiều nữa. cho tụi tôi được nghe một ít suy tư thầm kín của anh đi!Hạm trưởng thêm vào:- Anh ta thật tình không thích thổ lộ những tư tưởng vàng ngọc trước đám cử tọa chất phác như bọn mình đâu. Whittaker, dọn kem lên đi.Willie nhận thấy thái độ của hạm trưởng đối với Tom Keefer rất kỳ lạ, vừa thán phục vừa mỉa mai. Anh bắt đầu nhận thức được phòng ăn sĩ quan là nơi các sĩ quan có dịp bày tỏ những đánh giá phức tạp tế nhị của người này với người kia xoay quanh trung tâm điểm là nhân cách và thái độ của vị hạm trưởng. willie có cảm tưởng De Vriess có những khó khăn phải đương đầu với một thuộc hạ nổi trội hơn ông về văn hóa cũng như tài năng. Nhưng dù sao đi nữa, De Vriess đã khéo léo hướng dẫn câu chuyện để ông có thể nhường nhịn một cách khả ái trong khi ông không được phép nhường nhịn.Harding lên tiếng, bỏ cái thói quen luôn giữ im lặng của anh:- Một người bạn của tôi được chuyển đến khu trục hạm Abel. Tôi tự hỏi liệu anh sẽ nghĩ gì nếu anh được thuyên chuyển đến đó?Keefer trả lời ngay:- Có lẽ tôi sẽ nói rằng tôi đã dâng cúng những thành quả đầu tiên trong đời của tôi ở trên đó, như Chúa đã biết tôi ở đây và tôi hy vọng những lễ vật đó được Chúa chấp nhận.Gordon hỏi lại:- Tom, thành quả đầu tiên trong đời của anh là cái gì vậy?- Những năm trai trẻ đầy nhiệt huyết của tôi, thời kỳ mà văn sĩ Sheridan đã hoàn thành tác phẩm The Rivals. Dickens sáng tác Pickwick và Meredith viết quyển Richard Feverel. Còn tôi, tôi đã làm được cái gsáng tác Pickwick và Meredith viết quyển Richard Feverel. Còn tôi, tôi đã làm được cái gì? Mã dịch một lô những công điện, văn thư và tài liệu hải hành. Tuổi trẻ tươi sáng của tôi đã trải mưa sương trên bụi đời. ít nhất, nếu tôi ở trên một hàng không mẫu hạm….Willie hãnh diện nói với Keefer:- Anh đã thuổng đoạn này của Francis Thompson.Tỏ vẻ ngạc nhiên, hạm trưởng nói lớn:- Chúa ơi, chiến hạm này đã trở thành một câu lạc bộ văn thơ. Tôi rất sung sướng được thuyên chuyển khỏi đây.Harding nói thêm:- Ông Keefer à, theo tôi nghĩ, ông có thể bóp méo tên của bất cứ chiến hạm nào để trở thành những ý nghĩa tượng trưng, như Caine, Abel.Keefer đáp lại:- Thế giới này tràn ngập biểu tượng và đấy là bài học thần học sơ đẳng nhất.Willie bổ khuyết.- Tôi nghĩ Harding có ý muốn nói trong đầu anh tràn ngập một kho tàng vô tận nghệ thuật chơi chữ.Gordon vừa la lớn vừa giơ một ngón tay mập ú lên ra dấu một cái kem thứ ba:- Hoan hô các tân sĩ quan.Keefer nói tiếp:- Các cuộc đàm thoại thông minh có ý nghĩa đều là chơi chữ, các cái khác chỉ toàn là định nghĩa và quy định.Harding vẫn giữ vững lập trường của mình, nói tiếp:- Điều tôi muốn nói là anh vẫn còn tiếp tục xoay quanh những cách dùng chữ tượng trưng và cái nào cũng hay như cái nào.Với cái gật đầu tán thưởng, Keefer nói:- Không phải hoàn toàn như vậy đâu, nhưng sự trắc nghiệm giá trị của mỗi một biểu tượng đều căn cứ vào sự thật. vấn đề tôi vừa nói với anh về Abel chỉ là cách dùng chữ có lý bề ngoài để trả lời anh thôi. Nhưng thưa anh, chúng ta đang ở trên chiếc Caine.Willie tiếp lời:- Vì thế chúng ta bị bỏ rơi vì tội lỗi của chúng ta.Maryk nói:- Trời đất ơi! Tội lỗi gì, Keith, giống như là bơ trong miệng anh không thèm tan ra vậy. coi cái mặt non choẹt trong trắng của anh ta như thế thì làm sao mà có tội lỗi gì được!Keefer nói:- Biết đâu được, có thể có lần anh ta đã đánh cắp tiền của mẹ anh ta. Tội lỗi chỉ là tương đối với cá nhân đó thôi.Gordon nói:- Chẳng biết tôi có làm điều gì có thể gọi là tội lỗi không….- Rất khó mà biết cái gì có thể gọi là tội lỗi trong mấy người sinh ra trong hoàn cảnh khốn khổ - Keefer nói – cũng có thể anh ddang thờ một con quỷ Sa tăng trong phòng ngủ sĩ quan của anh không chừng…Hạm trưởng vừa đứng dậy vừa lớn giọng:- Tôi qua xem phim Hopalong Canidy trên tàu Johnson đây. Tom đã đưa ra những vấn đề tinh thần rất hay cho tôi.Chiếc Caine rời Trân Châu Cảng vào lúc trời vừa rạng sáng trong cơn mưa như trút nước. trên đài chỉ huy, Maryk ôm ống loa truyền tin bóng xanh để báo cáo tình hình chiến hạm cho hạm trưởng.- Thưa hạm trưởng, chiến hạm đã sẵn sàng tách bến.Được chỉ định phụ tá sĩ quan đương phiên trên đài chỉ huy, Willie hoàn toàn bối rối với các báo cáo liên tục và những lệnh phóng nhanh hơn cả lời nói. anh đứng giữa trời mưa, ấm áp với bộ quân phục kaki, ống nhòm kẹp sát nách như tránh không cho ướt. anh đã từ chối vào núp mưa trong phòng hải hành với một ý nghĩ mơ hồ là chứng tỏ được một người lính biển chính cống.De Vriess bước từng bước một trên các bậc thang hướng lên đài chỉ huy, mình áp sát vào chỗ tựa, mắt lơ đãng nhìn vào các dây buộc tàu, ước lượng hướng gió, chú ý khoảng trống sau lái và ra một vài lệnh ngắn gọn với giọng thật rõ ràng và vui vẻ. dáng vẻ của ông ta thật đáng phục. willie trong thâm tâm thừa nhận điều này vì tất cả hành động và lời nói như phát xuất từ tiềm thức, có lẽ do kinh nghiệm và lòng tự tin. Đây không thuộc vấn đề thể lực, không cần một thân hình thẳng thớm, vai rộng, bụng thon, đây chính là kiến thức, là kinh nghiệm. tất cả hiện lên đôi mắt sắc sảo, trong cung cách của người có quyền quyết định và ra lệnh.Willie nghĩ thầm “Trời đất ơi! Nếu một hạm trưởng khu trục hạm không đủ khả năng tách chiến hạm ra khỏi bến, liệu ông ta sinh ra để làm gì?” Anh đã thừa nhận vẻ hào nhoáng bề ngoại của chiến hạm để che dấu sự cũ nát của con tàu và chấp nhận chiếc Caine như là một khu trục hạm thực sự.Một tiếng còi tàu dài cắt đứt dòng suy nghĩ của anh. Một chiếc tàu giòng nhỏ kéo lái khu trục hạm bên cạnh chiếc Caine dần dần di chuyển chậm chạp ra xa, lộ ra một vùng biển trống và những giọt mưa lốp đốp trên biển lặng. hạm trưởng ra lệnh:- Tháo hết dây tả mạn.Một thủy thủ có bộ râu cằm nhọn như râu dê, đeo máy nói tên là Gubnecher, trong chốc lát báo cáo:- Thưa hạm trưởng, tất cả các dây, mũi lái đều đã tháo hết.- Tả lùi một – hạm trưởng ra lệnh.Trung sĩ bí thư béo phệ đang đứng gần cần máy truyền lệnh lặp lại lệnh “Tả lùi một” và đánh vào cần điều khiển truyền lệnh xuống hầm máy. kim của cần điều khiển chuyển động và rung lên cho biết hầm máy nhận rõ và máy tả đã lùi một. chiến hạm bắt đầu rung rung và từ từ lùi. Willie, một thoáng qua từ trong tiềm thức, đây là giây phút lịch sử, lần đầu tiên hải hành trên chiếc Caine nhưng lập tức anh xua đuổi những ý nghĩ thoáng qua ra khỏi đầu óc mình. chiến hạm này sẽ không có gì quan trọng với cuộc đời của anh. Anh quyết tâm muốn thấy điều đó.- Keith, tránh qua chỗ khác! – hạm trưởng nói cộc lốc vừa nghiêng mình qua một bên để nhìn về phía trước.- Tôi xin lỗi! – Willie vừa nói vừa nhảy sang chỗ khác. anh vuốt những dòng nước mưa đang chảy xuống mặt anh.- Hai máy ngừng! – De Vriess ra lệnh. Ông ta đi ngang qua Willie và nói nhỏ - anh đứng ngoài trời mưa đủ chưa? Vào phòng lái để tránh mưa đi!- Cảm ơn hạm trưởng – anh vui vẻ đi vào phòng lái. Một cơn gió mạnh thổi vào vùng vịnh làm những giọt mưa rơi lộp độp trên cửa sổ phòng lái.Grunbnecker nói:- Sân sau báo cáo phao của hải cảng một trăm yard ngay sau lái.Hạm trưởng gật gù:- Nhận rõ.Trong một bộ đồ đi mưa sũng nước, Maryk chăm chú nhìn qua ống nhòm quan sát lạch lưu thông và báo cáo:- Thưa hạm trưởng, một tàu ngầm đang hướng về phía hạ dòng, vận tốc khoảng mười gút, khoảng cách 1000 yards.- Nhận rõ.Thủy thủ lập lệnh lại báo cáo:- Sân sau một thiết giáp hạm và hai hộ tống hạm đang đi vào hải cảng.De Vriess bình tĩnh bông đùa:- Đúng là ngã tư của đại lộ 42 và Broadway.Nhìn vào lạch lưu thông gợn sóng, Willie nghĩ rằng chiếc Caine đang ở trong tình thế rất khó xoay sở. gió thổi từ mũi làm cho con tàu trôi nhanh về hướng phao. Chỉ có một khoảng rất hẹp để vận chuyển chiếc hạm tránh được phao sau lái và các chiến hạm trong vùng cùng vận chuyển. thiết giáp hạm và tiềm thủy đĩnh càng lúc càng sát vào hai bên tả mạn và hữu mạn.Tỏ vẻ không quan tâm đến những khó khăn xung quanh, De Vriess ra một số lệnh liên tục, dồn dập cho chân vịt và tay lái, Willie cũng không theo dõi kịp. kết quả chiến hạm vét mìn quay lui một cung tròn, mũi hướng về phía hạ dòng, tránh được phao hải cảng và làm cho chiếc Caine ở vị trí sau lái của tiềm thủy đĩnh. Trong khi đó thiết giáp hạm và hộ tống hạm vượt qua phía tả mạn với một khoảng cách an toàn. Willie nhận thấy không có dấu hiệu bàn tán hay cảm kích hiện lên sắc mặt của tất cả các thủy thủ đang hiện diện, anh nghĩ rằng cái gì có vẻ khó khăn cho anh chỉ là điều thường tình đối với người đi biển có kinh nghiệm.Maryk bước vào phòng hải hành, với tay lấy cái khăn vắt trên ghế của hạm trưởng và lau mặt.- Chó chết, đúng là thời tiết ở Puget Sound.Ông ta thấy Willie đang đứng xớ rớ không có việc gì làm bèn hỏi:- Anh làm cái giống gì mà đứng ở đây? Anh được chỉ định đứng quan sát bên hữu mạn của đài chỉ huy mà.- Hạm trưởng bảo tôi vào đây trú mưa.- Quỷ sứ, anh lại cản đường của ông ấy chớ gì. Đi ra đi. anh không chết cóng đâu mà sợ.- Dạ, dạ - Willie theo ông ta ra ngoài, tự giận mình sao làm cách nào cũng sai hết.Maryk vừa chăm chú nhìn xuống lạch hải hành vừa hỏi Willie:- Anh có học được điều gì hay trong cách vận chuyển lùi của hạm trưởng không?Willie trả lời:- Gần giống như những vận chuyển bình thường.Maryk tỏ vẻ kinh ngạc qua câu trả lời của Willie bằng cách thả buông lỏng ống nhòm xuống và há hốc mồm nhìn Willie.- Trước đây, anh chưa bao giờ ở trên đài chỉ huy phải không Keith?- Thưa đại úy, chưa bao giờ.Maryk gật đầu, tiếp tục theo dõi con lạch với ống nhòm.Willie vừa gạt những giọt nước mưa chảy vào mắt và nói:- Sao đại úy lại hỏi vậy? vận chuyển vừa rồi có gì đặc biệt đâu?Maryk lên tiếng:- Chúa ơi, không, không, không phải thế đâu. Bất cứ thiếu úy nào cũng có thể vận chuyển được giống như ông hạm vừa làm. tôi sợ anh thán phục nhiều quá vì một lý do gì đó không được đúng lắm.Ông ta lại nhăn mặt lần nữa và bước vội qua phía bên kia đài chỉ huy.Cơn mưa rào đã dứt, mặt trời chiếu chói chan trên biển trong khi chiếc Caine đang đi ra khỏi lạch, và đi vào vùng biển rộng. khi mãn phiên hải hành, Willie chạy đến trước mũi tàu để thưởng thức quang cảnh của Diamond Head và những đồi xanh của đảo Oahu. Chiến hạm lướt nhẹ trên mặt biển yên sóng với tốc độ 20 gút. Anh rất ngạc nhiên tốc độ quá nhanh của một tàu vét mìn cũ kỹ. cũng còn một chút dáng vẻ oai hùng còn sót lại của một khu trục hạm trong thời kỳ tàn tạ. boong tàu nghiêng sâu xuống và sóng mũi làm tóe nước và Willie hãnh diện không cảm thấy một cảm giác say sóng nào. đây là lần đầu tiên từ khi được chuyển đến chiến hạm này, anh nhận thấy một cảm giác vui sướng.Nhưng anh đã mắc một lầm lẫn lớn khi đi xuống phòng ăn để kiếm cà phê. Keefer đã giữ anh lại và nhờ sửa chữa các bản tin tức cho hải hành. Đây là công việc chán nhất trong các công việc thuộc lãnh vực truyền tin. Willie rất ghét mực đỏ, kéo và keo có mùi hăng hắc khó chịu. và những sửa chữa nhỏ nhặt lúc nào cũng có. Trang 9, đoạn 0862 hàng 3: “tất cả các cuộc thực tập tác xạ được ghi chú” đổi thành: “Tất cả các cuộc thực tập tác xạ được ghi chú bởi UNSF7A”. anh thoáng nghĩ đến hình ảnh của hàng ngàn thiếu úy trên toàn cầu phải căng đôi mắt, cong lưng qua những lỗi lầm nhỏ nhặt này.Sóng biển và di chuyển của con tàu chồng chềnh lắc lư làm cái bàn màu lục mà Willie đang ngồi làm việc lắc nhịp theo, bắt đầu làm anh khó chịu. anh thấy bất mãn thực sự vì Keefer giao cho anh một số bản tu chính lẽ ra phải nhật tu từ lâu rồi. một vài bản chính anh đã vào sổ khi còn làm ở bộ tư lệnh Hải quân Hành quân Thái Bình Dương nhiều tháng trước đây. Một lúc chịu hết nổi, anh giận dữ ném viết xuống bàn. Anh mất cả tiếng đồng hồ, tỉ mỉ điều chỉnh mực sửa chữa vì quá lỗi thời. càng về sau, trong đống hồ sơ lại có những trang mới hơn, sửa lại những gì anh vừa mới sửa. thật là điên đầu. anh nói với Carmody đang ngồi bên cạnh anh mã dịch các công điện:- Thật khốn khổ, Keefer chẳng bao giờ ngồi vào để làm những công việc chúng ta đang làm. những thứ mà chúng ta đang còng lưng để sửa chữa tồn tại từ trận thế chiến vừa qua.Vừa vuốt vài sợi râu ngạnh trê,Carmody buột miệng nói lớn một cách chua chát:- Đại úy Keefer rất bận rộn với tập truyện của anh ta.- Tập truyện nào?- Ông ta đang viết một loại truyện dài nào đó. Phần lớn về đêm trong khi tôi đang cố gắng ru giấc ngủ, anh ta một mình đi bách bộ, thầm thì với chính anh ta. Ban ngày là lúc anh ta ngủ. nhưng tôi không hiểu bằng cách nào anh ta có thể làm việc trên những cái máy mật mã cũ kỹ mười lần nhanh hơn bất cứ sĩ quan nào trên chiến hạm này. Anh ta đã học sáu tháng tại bộ tư lệnh để nghiên cứu cách làm cho nhanh. Vì vậy anh ta có thể giải quyết mọi ứ đọng trong vài tiếng đồng hồ một ngày. Dù vậy, chúng ta luôn luôn bị chậm trễ. Anh, Rabbit và tôi, chúng ta đã hoàn tất độ chín mươi phần trăm của đống hồ sơ. Tôi nghĩ anh ta là một kẻ bất bình thường.- Anh đã được đọc tập truyện nào của Keefer chưa?- Trời đất ơi! Tôi không có đủ thì giờ để đọc các tác phẩm của những tác giả mà tôi yêu thích. Hơi đâu tôi lại phải bận tâm với những thứ vụn vặt đó.Carmody dùng ngón tay trái xoay xoay chiếc nhẫn màu xanh vàng của trường Annapolis một cách có ẩn ý. Anh đứng dậy, đi đến quầy cà phê và rót một tách. Anh hỏi Willie có muốn một tách không. Willie nhận tách cà phê và nói:- Cảm ơn. Thật tội nghiệp cho những người có tài năng đầy người mà phải đảm nhận những công việc nhàm chán này.Carmody thả mình xuống ghế và nói một cách chán chường:- Tài năng gì?- Carmody, anh biết không. Keefer là một soạn giả chuyên nghiệp. anh ta đã viết nhiều truyện ngắn đăng trên các tạp chí. Nhà hát Theater Guild đã chọn một trong những vở kịch của anh ta.- Như vậy thì sao? Anh ta đang ở trên chiếc Caine, cũng như anh và tôi vậy, có khác gì đâu.- Khi ông Keefer từ giã chiếc Caine mang theo một tác phẩm nghệ thuật, như thể thật là đóng góp lớn lao cho nước Mỹ hơn là những đống công điện giải mã này.- Keefer được chỉ định làm sĩ quan truyền tin, không được chỉ định làm việc để cống hiến gì cho nước Mỹ…Bất chợt Keefer đi vào phòng ăn trong bộ đồ lót và đến ngay quầy cà phê:- Sao? Công việc ra sao các cậu?Carmody vừa nói đổi ngay ra giọng khúm núm vừa đẩy tách cà phê ra xa, tiếp tục công việc mã dịch:- Thưa đại úy, tất cả đều suôn sẻ.Willie nói:- Ngoại trừ theo chúng tôi nghĩ, đại úy cũng nên giải mã dịch một chút như là một sự thay đổi cho đỡ nhàm chán – Willie chẳng ngần ngại đưa ra một ý kiến dù rằng Keefer có cấp bậc cao hơn trong hải quân. Anh biết chắc chắn rằng chàng sĩ quan truyền tin này sẽ chế nhạo anh về việc căn cứ vào cấp bậc trong giao tiếp. willie từ lâu đã kính trọng Keefer, nay sự kính trọng càng tăng thêm khi được biết Keefer đang hoàn thành một cuốn tiểu thuyết.Keefer mỉm cười, đi đến gần bàn ăn hơn. anh ta lom khom xuống cái ghế và nói với Carmody:- Vấn đề khó khăn gì đây, Annapolis. Anh có cần đi nói chuyện với cha tuyên úy không vậy?Carmody cúi gầm mặt xuống và nói:- Công việc mật mã là một phần công việc của các thiếu úy trên các chiến hạm nhỏ. Tôi chẳng có vấn đề gì phiền hà. Mỗi sĩ quan ngành chỉ huy phải học những căn bản của truyền tin và..Keefer uống vội tách cà phê và nói với Carmody:- Nè, Carmody, đưa cái máy cho tôi. Tôi đang không có gì để làm cả. anh đi nghiên cứu hải quy của anh đi.Keefer giằng cái máy giải mã từ tay của Carmody.- Đại úy, không, tôi đang tiếp tục công việc này. Tôi rất sung sướng để….- Đi ra đi.- Dạ. cảm ơn đại úy.Nói xong Carmody đứng dậy, xoay qua phía Keith gượng cười và đi ra.Keefer nói:- Một người hạnh phúc đã ra đi – anh ta bắt đầu gõ nhịp máy mật mã theo vận chuyển của máy. như Carmody đã nói, anh ta làm nhanh không thể tưởng tượng được.- Carmody nói với tôi là anh đang viết một quyển truyện.Keefer gật đầu.- Viết được nhiều chưa?- Khoảng bốn mươi ngàn của bốn trăm ngàn chữ.- Ô, thế là dài lắm.- Dài hơn thiên anh hùng ca Ulysses và ngắn hơn truyện Chiến tranh và hòa bình- Có phải truyện về chiến tranh không?Keefer mỉm cười chua chát:- Câu chuyện xảy ra trên một hàng không mẫu hạm.- Anh đã có tên cho quyển sách chưa?- Tôi đã chọn một tên tạm thời thôi.- Tên gì vậy?- Chính tên quyển sách cũng không nói được gì nhiều.- Dù sao tôi muốn được biết tên của quyển sách…Hơi do dự, nhưng sau cùng Keefer cũng đọc lên từng chữ một cách chậm rãi:- Mul-ti-tu-des, Multitudes (trùng trùng điệp điệp)- Tôi thích tên đó lắm.- Anh có biết tên đó phát xuất từ đâu không?- Có lẽ từ kinh thánh, phải không.- Chương Thánh Joel. Multitudes, multitudes trong thung lũng của quyết định.- Thế thì hay quá rồi. liệu tôi có thể đặt mua ngay bây giờ với chữ ký của tác giả quyển thứ một triệu không?Keefer cười hả dạ, cái cười của một soạn giả được tán dương. Sau cùng anh nói:- Tôi còn phải làm nhiều việc lắm mới đạt tới mục đích đó.- Tôi nghĩ anh sẽ làm được việc này. Tôi có được phép đọc một vài phần của quyển sách không?- Dĩ nhiên rồi. khi phần nào hoàn chỉnh.Tuy nói chuyện với Willie, Keefer chẳng bao giờ ngừng công việc. anh đã hoàn tất cái thư thứ ba và bắt đầu sang cái thứ tư. Willie trâm trồ khen ngợi:- Anh thực sự làm quá nhanh.- Có thể đó là lý do tôi để thư tin dồn đống lại, cũng giống như kể chuyện Cô bé choàng khăn đỏ hàng ngàn lần. công việc này rất dễ dàng nhưng dễ chán khi mới bắt đầu đôi lúc trở nên bực tức khi phải lập đi lập lại công việc nhiều lần.- Trong hải quân, hầu hết các công tác đều lập đi lập lại mà.- Tôi chẳng quan tâm đến điều đó, khi có đến năm mươi phần trăm là động tác thừa. trong lãnh vực truyền tin tỷ lệ này lên đến chín mươi tám phần trăm. Ví dụ như chúng ta có trách nhiệm đến một trăm mười hai công điện. chúng ta chỉ dùng có sáu cái. Số còn lại chúng ta có nhiệm vụ phải điều chỉnh, tu chính, mỗi một tháng xấp thư tín thuộc loại này lại chồng lên xấp khác. về phương diện mật mã, thực sự có khoảng bốn công điện trong một tháng liên quan đến chiến hạm. giả dụ, lệnh của hạm trưởng Queeg. Công điện ra lệnh thực tập rà mìn. Tất cả còn lại trong đống rác rưởi này, chúng ta phải xem kỹ lưỡng vì đương kim hạm trưởng, với tính tò mò cố hữu muốn biết tất cả các hoạt động của toàn hạm đội. chỉ có một lý do duy nhất là tại hội quán sĩ quan, ông ta có thể nói chuyện với vài người bạn cùng trang lứa tất cả những hoạt động của Hải quân, như ông ta vẫn thường làm, với câu hỏi của kẻ biết nhiều chuyện “Các anh có biết không? được rồi, tôi hy vọng các anh thích nghe mặt trận tấn công phía nam có chiều hướng tấn công mạnh”. Điều này tạo ra cho ông ta giống như bạn thân của các đô đốc. tôi đã từng thấy ông ta làm chuyện này vài chục lần.Keefer tiếp tục làm nhanh công việc giải mã trong khi anh vẫn trò chuyện. willie thật kinh ngạc với tốc độ mà Keefer đang đạt được. cho đến bây giờ anh ta đã làm hơn những gì Willie đã làm trong một giờ dù rằng Willie là người nhanh nhất trong đám thiếu uy có mặt trên chiến hạm này.- Tôi chẳng thể nào làm nhanh được như anh.- Willie, anh có bao giờ mở mắt thật lớn để nhìn vào tập thể Hải quân chưa? Đây chỉ là những trò chơi trẻ con, công việc đã hoạch định và đóng khung do một số đầu óc thượng thặng ở đâu đâu và cho rằng chỉ cần những đầu óc không bình thường cũng có thể chịu trách nhiệm một phần nào đó. Sự ước đoán này có hiệu quả cao trong thời bình. Một số thanh niên có triển vọng cao tình nguyện đầu quân vào Hải quân với một ước mơ lâu dài sẽ trở thành những đô đốc của quốc gia và họ đã thành công chắc chắn, vì chẳng có một sự cạnh tranh nào. đối với số đông còn lại, Hải quân chỉ là nơi đào tạo những tay nghề thấp nhất trong xã hội, và bù lại tập thể không may mắn này được một sự an ninh tồi tàn để đổi lấy hai mươi hay ba mươi tận tâm phục vụ. đừng kể những người có đầu óc siêu phàm, đối với những người Mỹ có đầu óc trung bình, luôn luôn tự trọng, liệu họ có chịu cuộc sống như thế không? anh thấy không, bây giờ là thời chiến, những người có thực tài tụ tập nhau lại trong quân ngũ. Chẳng lạ gì bọn người tài giỏi này hoàn tất mọi lãnh vực của họ trong vòng tuần lễ, còn bọn khùng điên kia mất cả năm. Còn nói vê cái máy mật mã mà chúng ta đang sử dụng đây là một ví dụ. những người cần cù, chăm chỉ trong Hải quân có thể làm xong năm hay sáu công điện trong một giờ. Còn bất cứ anh truyền tin nào được huấn luyện nửa chừng cũng có khả năng giải quyết hai mươi cái trong một giờ. Cho nên chẳng lạ gì những kẻ khốn khổ chỉ được huấn luyện sơ sài phải ganh tị với chúng ta.Willie khá ngạc nhiên và bối rối nói:- Lập dị! lập dị!- Không phải vậy đâu. Sự thật rất rõ ràng. Dù ở trong bất cứ phạm vi nào, mật mã, cơ khí hay trọng pháo, bạn sẽ tìm thấy tất cả đều đã được trắc nghiệm và có những quy định rõ ràng đến mức độ phải vào nhà thương điên, chưa chắc đã kiếm được một người mà không thể làm xong công việc được. bạn hay nhớ một vấn đề: việc giải thích và dung hòa bạn với quy luật trong Hải quân, với tất cả báo cáo cần thiết và tất cả sự nhấn mạnh vì trí nhớ và tinh thần kỷ luật và với tất cả mọi cách thức căn bản để hoàn thành công việc. bạn có thể ví Hải quân như là một họa đồ chính do các thiên tài vẽ ra cho các người ngu dốt thi hành. Nếu bạn không phải là người ngu dốt và đã tình nguyện vào Hải quân, bạn chỉ có thể thi hành đúng đắn các công tác nếu bạn coi mình là một thằng ngu dốt mà thôi. Những cách thức tiết kiệm thời gian và sức lực, những vấn đề tiết kiệm vật liệu và những ý nghĩ thông thường mà trí thông minh sẵn có cho bạn biết, nếu bạn làm theo như vậy thì bạn đã làm điều sai trái rồi. bạn hãy học cách đè trí thông minh của bạn xuống. lúc nào cũng phải tự hỏi làm cách nào để hoàn tất việc này nếu tôi là một thằng thật ngốc, khùng khùng. Đẩy trí óc thông minh của bạn xuống thật thấp, như vậy chẳng bao giờ bạn bị lầm lỡ.Keefer nói thêm:- À, tôi đã hoàn tất phần giành cho sư huynh CarmodyVà đẩy sang một bên đống hồ sơ vừa làm xong.- Anh có muốn tôi giúp một phần nào không?- Cảm ơn Đại úy, không cần đâu. Đại úy có vẻ chua chát với Hải quân phải không?Keefer hăng hái tuyên bố:- Willie, không, tuyệt đối không. tôi chấp nhận toàn bộ chương trình đã hoạch định. Chúng ta cần có một Hải quân và không có cách nào khác hơn là cách đó để điều hành Hải quân trong một xã hội tự do. Bạn chỉ cần bỏ chút đỉnh thì giờ để nhìn vào bức tranh có thật và tôi đã chuyển cho bạn những kết quả mà tôi đã phân tích. Bạn là người thông minh, lại xuất thân từ một gia đình khá giả. Trong vòng vài tháng tới, bạn sẽ đạt được cùng kết luận. bạn còn quá sự thử thách khả năng những người nô lệ thời Socrates với cành cây trong cát? Không, chính yếu tố thiên nhiên tự xuất hiện trong chốc lát. Đối với bạn, chuyện này sẽ xảy ra một cách nhanh chóng.- Cuộc sống của Đại úy trên chiến hạm này cũng là một sự thử thách? Hải quân là bản thiết kế do các thiên tài tạo dựng cho các người ngu dốt thi hành.Keefer gật đầu cười:- Đấy là một sự chứng minh hoàn hảo của một con người luôn luôn tôn trọng kỷ luật. willie, bạn sẽ là một sĩ quan Hải quân xuất sắc.Vài tiếng đồng hồ sau, Willie lại lên phiên hải hành từ trưa cho đến 4 giờ chiều, tại đài chỉ huy cùng với Maryk. Hạm trưởng De Vriess đang chập chờn trong cái ghế hẹp phía hữu mạn trong phòng lái. Đồ dư của bữa ăn trưa của ông ta còn sót lại trong cái khay nhôm nằm trên sàn dưới chân ghệ một cái bánh bắp ăn lở dở, miếng steak còn lại những mẩu vụn và tách cà phê nằm ngã ngửa trong khay. Trời trong sáng và rực nóng. Biển lác đác vài con sóng bạc đầu. chiến hạm nghiêng qua nghiêng lại, kêu kẽo kẹt, mỗi lần lướt qua trũng sâu của sóng. Chiến hạm đang ở vận tốc 15 gút. Bỗng nhiên điện thoại reo và Willie lập tức cầm ống nghe.Một giọng khàn khàn trong điện thoại:- Phòng cứu hỏa trước mũi xin phép để thông ống khói.Willie lập lại lời yêu cầu cho Maryk, sĩ quan đương phiên nói “Chấp thuận” sau khi liếc nhìn hướng cờ bay phất phới trên cột cờ. vài tiếng ầm ầm phát ra từ ống khói và khói đen như mực tuôn ra và trôi ra xa thẳng góc với hướng tàu đang tiến tới. Maryk nói một cách bâng quơ:- Gió ngang, mang mồ hóng ra xa. Đôi khi anh phải đổi hướng tàu để có được hướng gió tốt. khi đó, anh phải xin phép hạm trưởng”.Chiến hạm lắc mạnh. Tấm thảm bằng cao su trải sàn ở phòng hải hành trôi về một góc. Willie phải bấu tay vào tay nắm cửa sổ để giữ thăng bằng, anh trung sĩ cố gắng giữ tấm thảm trở lại nguyên như cũ. Anh ta nhận xét:- Chiến hạm sẽ bớt lắc hơn khi có gió và sóng ngang.Maryk nói:- Loại chiến hạm này ngay trong ụ cũng còn lắc nữa là. Chiến hạm chở quá nhiều vật liệu phía sau, làm mũi tàu nổi lên hứng hết gió, tạo sự mất cân bằng và gió ngang có thể làm cho chiến hạm lật úp.Nói xong ông ta bước nhanh sang cánh hữu mạn. Willie cũng bước theo, rất sung sướng có cơ hội gió mát thổi thẳng vào mặt. không khí trở nên thoáng mát dễ chịu hơn so với phòng hải hành, không khí ngột ngạ vì kín gió và tàu lại lắc nhiều. anh thầm nghĩ trong những phiên hải hành sắp tới, anh phải chọn phía thoáng gió, đồng thời một dịp may làm cho da anh đỏ hồng như tắm nắng.Ông đại úy trưởng phiên lúc nào cũng dùng ống nhòm để nhìn về phía chân trời xa, đôi lúc xoay quanh một vòng như tìm kiếm một cái gì ở mãi tận đâu. Willie bắt chước ông ta nhưng biển xanh bát ngát, anh chẳng thấy một cái gì lạ, một lát sau anh chán nản và không còn thích thú nhìn nữa.Willie nói:- Maryk, ông nghĩ gì về Keefer?Viên đại úy liếc nhìn anh thật nhanh tỏ vẻ ngạc nhiên:- Thật là một bộ óc bén nhạy.- Ông có nghĩ anh ta là một sĩ quan giỏi không?Willie biết câu hỏi của mình đã vượt quá giới hạn cho phép, nhưng vì tính tò mò quá mạnh làm anh không ngừng được. viên đại úy tiếp tục quan sát và chỉ nói:- Tạm được, giống như bọn mình thôi.- Anh ta không thích Hải quân.Maryk lẩm bẩm như có một cái gì không thoải mái:- Tom chẳng bao giờ thích cái gì nhiều, trước kia, anh ta đã bắt đầu sinh sống ở vùng California.- Đại úy quê ở miền biển phía Tây hả?Maryk gật đầu:- Tom nói rằng đấy là vùng hoang dại nguyên thủy còn sót lại để cho các nhà nhân chủng học nghiên cứu.- Đại úy, đại úy làm nghề gì trước khi nhập ngũ vậy?Maryk liếc nhìn ông hạm trưởng đang ngủ chập chờn và trả lời vắn tắt:- Đánh cá.- Đánh cá thương mại?- Keith, chúng ta lên đây để thi hành nhiệm vụ đương phiên chứ không phải hứng gió mát. Nếu anh có những vấn đề gì cần hỏi về chiến hạm hay có những thắc mắc trong phiên hải hành, dĩ nhiên tôi sẵn sàng giải thích, còn những vấn đề khác…- Tôi xin lỗi.- Ông hạm trưởng chẳng bao giờ để ý đến chuyện này, nhưng tốt nhất chúng ta nên để tâm lo việc khi đương phiên hải hành.- Thưa đại úy, chắc chắn là phải vậy. tôi nghĩ bây giờ không có gì quan trọng xảy ra, cho nên…- Khi có chuyện xảy ra, thường xảy ra rất nhanh.- Vâng, tôi ghi nhận.Một lát sau, Maryk bỗng nói:- Chúng nó đây rồi.- Ở đâu, đại úy?- Hướng một giờ hữu mạn.Willie cố banh mắt ra nhìn qua ống nhòm theo hướng Maryk vừa chỉ. sau những đỉnh sóng bạc đầu óng ánh dưới ánh nắng chứa chan, anh chẳng thấy cái gì hết, ngoại trừ, anh nghĩ có thể có hai, không mà có tới ba chấm đen mờ nhạt, giống như những sợi râu cứng không cạo dưới cằm.Maryk đánh thức hạm trưởng và báo cáo:- Thưa hạm trưởng, có ba cái thùng lớn đàng xa, khoảng ba hải lý.Hạm trưởng lẩm bẩm trong miệng:- Được, tăng lên hai mươi gút và đến giữa đám đó.Ba sợi râu cứng dần dần hiện rõ ba cái cột cờ, rồi một phần tàu hiện ra, và cuối cùng thấy rõ ràng bằng mắt thường ba chiến hạm. willie nghiên cứu và biết rất nhiều về hình cắt dọc của chiến hạm: ba ống khói với khoảng cách không đều giữa ống khói hai và ba, đại bác cỡ ba inches nhỏ, yếu ớt, boong tàu nghiêng, hai cần cẩu hơi bị lệch một cách kỳ lạ ở sân sau lái. Đúng là cùng lứa tuổi và cùng kiểu với Caine, khu trục hạm vét mìn. Hạm trưởng vươn mình đứng dậy và đến một bên cánh:- Chiến hạm nào vậy?Anh trung sĩ giám hộ chụp ngay kính viễn vọng dài và chăm chú cố gắng đọc cho được con số ở mũi chiến hạm. cuối cùng anh ta đọc lớn:- Frobisher…Jones…MoultonHạm trưởng thích thú la lên:- Moulton hả? hãy nhìn kỹ lại một lần nữa. chiến hạm này đang ở Sopac.Engstrand nói:- Thưa hạm trưởng, DMS-21- Anh có biết không, Duke Sammis lại đến với chúng ta. Anh chuyển lời chào mừng của hạm trưởng de Vriess đến Iron DukeAnh trung sĩ bắt đầu dùng đèn hiệu để chuyển bản văn. Một cái đèn lớn gắn trên sân thượng, có cần điều khiển cái nắp che ánh sáng của đèn tạo nên ánh sáng ngắn hoặc dài theo tín hiệu Morse. Willie lấy ống viễn kính và cố gắng nhìn qua chiếc Moulton. Trong chốc lát, ba chiếc DMS đến gần hơn. Willie nghĩ rằng anh đã thấy cái mặt dài thòng của Keggs, người đang đứng tựa vào hàng dây an toàn trên đài chỉ huy. Anh nói:- Tôi có quen một vài người trên chiếc Moulton.De Vriess nói:- Tốt lắm, càng đông làm cho cuộc hành quân thêm vui. Steve, giữ liên lạc và vào vị trí khoảng 1000 yards sau lái Moulton. Với đội hình hàng chéo ngang.- Nghe rõ, thưa hạm trưởng.Willie là một trong những tay vô địch về cờ đèn thời kỳ ah còn học ở Furnald Hall. Anh thường tự hào về khả năng chuyển tín hiệu cờ đèn tám chữ một phút. Cho nên, đấy là lẽ tự nhiên, khi thấy Engstrand rời cái đèn hiệu, Willie liền vồ lấy cần điều khiển và bắt đầu chuyển tín hiệu cho Moulton. Anh muốn nhân cơ hội gởi lời chào mừng Keggs và đồng thời cũng nghĩ với khả năng cờ đèn như vậy, hạm trưởng sẽ đánh giá đến khả năng của anh hơn. mấy anh giám lộ - trung sĩ Engstrand và hai phụ tá, trố mắt nhìn Willie, tỏ vẻ ngạc nhiên và bất mãn.Thấy vậy, Willie xoa dịu:- Các anh đừng có lo. Tôi có khả năng chuyểnMấy anh thủy thủ nghĩ như thế nào, khi bị đụng chạm đến nghề nghiệp chuyên môn và sẽ bất mãn đến mức nào khi một sĩ quan có khả năng xen vào nghề nghiệp của họ, Willie nghĩ thầm như vậy. chiến hạm Moulton nhận rõ, và sẵn sàng. Willie bắt đầu chuyển tin “Chào mừng Keggs. Cái gì…”Giọng của hạm trưởng bất ngờ ở bên tai anh:- Ông Keith, ông đang làm cái gì vậy?Willie ngừng đánh đèn, tay vẫn còn ở trên cần điều khiển. Willie trả lời một cách trắng trợn:- Chỉ hỏi thăm một người bạn, thưa hạm trưởng.- Tôi hiểu, anh làm ơn bỏ tay khỏi cần điều khiển.- Dạ.Anh giật mạnh tay mình ra khỏi cần điều khiển. hạm trưởng hít một hơi dài, thở ra thật nhẹ nhàng chậm chạp và nói với giọng ôn tồn:- Tôi phải nói với anh một vấn đề. ông Keith, hệ thống truyền tin của chiến hạm khác với điện thoại công cộng trả tiền ngoài phố. chỉ có một người duy nhất trên chiến hạm này có thẩm quyền ra những công điện, đấy là tôi, cho nên từ nay về sau…- Thưa hạm trưởng, thư tôi gởi chẳng có một chút nào gọi là công điện. tôi chỉ gởi lời chào mừng.- Đừng có lộn xộn, Keith, anh phải chờ tôi nói xong đã. Bất cứ lúc nào, chiến hạm đang ở tình trạng im lặng vô tuyến, bất cứ những phương tiện liên lạc khác đều là những phương cách liên lạc chính thức và tôi và chỉ mình tôi có trách nhiệm. bây giờ anh đã rõ chưa?- Thưa hạm trưởng, tôi rất lấy làm tiếc. vì tôi không biết, nhưng…De Vriess quay sang phía anh trung sĩ giám hộ và mắng:- Trời tru đất diệt, Engstrand, anh đang ngủ gục trên phiên hải hành phải không? cái đèn đó là trách nhiệm của anh, anh biết không?- Thưa hạm trưởng, tôi biết.- Việc sĩ quan không am hiểu lề luật trong việc sử dụng hệ thống truyền tin, không phải là lý do cho anh chạy tội biết không. ngay cả ông hạm phó đặt tay lên cần điều khiển đèn hiệu, anh phải đẩy ông ta ra. Nếu chuyện tương tự như vậy còn xảy ra nữa, anh sẽ mất mười phiên đi bờ.Nói xong, hạm trưởng đi vào phòng lái. Engstrand nhìn Willie có vẻ trách móc và bước về phía bên kia của đài chỉ huy. Willie nhìn ra biển xa, anh cảm thấy hai tai anh nóng rang. Anh nghĩ thầm “Đồ thô bỉ. Đồ thô bỉ ích kỷ. tìm kiếm một cớ nhỏ mọn để tỏ quyền thế của mình. lại còn mắng mỏ một anh giám hộ để hạ nhục mình. đồ tồi tệ, đồ quý tộc dỏm. đồ thoái hóa”.