ỗi buồn về cái chết của cha rồi cũng nguôi ngoai dần, và Willie bắt đầu thích phải Trân Châu Cảng. việc làm của anh ở Ban Mật mã gồm tám tiếng đồng hồ cực nhọc mỗi ngày trong một cái hầm bằng xi măng, tuy thiếu thốn tiện nghi nhưng chính vì thế làm cho lương tâm anh lắng dịu. anh né tránh rượu chè, ca hát trong suốt hai tuần lễ, nhưng khi Đô đốc tư lệnh cho phép mở một buổi dạ tiệc khác, Willie lại say sửa và trở về với lề quen thói cũ. Những trò vui nhẹ nhàng không thiếu gì ở Honolulu. Khí hậu ấm áp, nắng chói chang, đêm trăng thơ mộng và không khí chan hòa hương sắc của trăm hoa. Ngoai trừ giờ giới nghiêm, khi cúp điện và những dãy hàng rào dây thép gai dọc theo bãi biển, Willie thường tham gia những buổi picnic do các cô y tá tổ chức. da anh ăn màu rám nắng lành mạnh và anh lại mập mạp như xưa.Anh tiếp tục viết những bức thư tình nồng cháy cho May. Anh gạt bỏ ý định bỏ rơi nàng. willie thấy rằng chờ đợi một hay hai năm nữa, May vẫn còn trẻ đẹp chán. Rồi có thể anh sẽ cưới nàng mà cũng có thể không. những mối liên hệ giữa hai người đã làm thành một “kinh nghiệm” quá quý báu khó cắt đứt. những bức thư của May là những gì anh ước muốn: dài, âu yếm, vui và thường là những tin tốt đẹp. nàng rất vui thích đi học đại học, dù rằng nàng nói là nàng y như một bà lão giữa đám sinh viên năm đầu. nàng được nhiều điểm tốt và văn phong của những bức thư nàng viết càng ngày càng lưu loát, nhẹ nhàng.Một buổi trưa tháng Bảy nóng bức, Keefer và Willie nằm dài trên giường mình đọc các lá thư vừa mới tới. những con muỗi bay vo vo đang sau cánh cửa sổ, mặc dù chả có gì để thu hút chúng trong cái phòng này, ngoài cái mùi gỗ khô. Keefer, trong chiếc quần xà lỏn trắng, cái bụng đầy lông lá của hắn lòi cả ra ngoài sợi dây nịt, dựa vào một bên hông, uể oải:- Trời đất! – hắn vừa la vừa dơ cùi chỏ lên – tên chiến hạm của mày là gì? Chiếc Caine phải không?- Ừa … - Willie trả lời mà đương mải mê đọc lá thư của May.- À này, mày có biết không, thằng anh tao hình như cũng ở trên chiếc đó.Willie nhìn hắn ngạc nhiên. Keefer tiếp:- Chiếc Caine là cái chắc. tao chả bao giờ đọc được cái tuồng chữ quỷ quái của ông bố tao. Nè, coi cái chữ này là chữ gì?Willie coi lại cái chữ mà Keefer chỉ vào bằng ngón tay cái của hắn, anh đáp:- Đúng là Caine.- Đâu có trật được. họ đổi anh ta xuống đó sau khi học trường truyền tin. Mày thấy tình cờ kỳ ngộ nhỉ?- Thế là nhất rồi. lâu lâu cũng phải được một cái may mắn chứ, như là chính tao có một người anh em trên tàu. anh ta có khoái ở trên chiếc đó không?- Không, anh ta viết thư cho ba tao nói rằng chiếc tàu như chiếcxà lan dơ dáy nhất hải quân…nhưng anh ta nói vậy chứ cũng chưa chắc là như vậy đâu – Rollo nhấn mạnh thêm, vừa nói vừa nhìn Willie nhăn mặt – Đừng tin hẳn những gì Tom nói. anh ta kỳ quặc lắm, kỳ quặc không kém đồng bạc ba đô la bao nhiêu đâu. Nếu như anh ta không thích chiếc Caine thì nó cũng có thể là một chiến hạm ngon lành không chừng.- Tom là người như thế nào vậy, Rollo?- Này nhé, mày hãy tưởng tượng một đứa ngược hẳn với tao…thì đó chính là Tom. Mày biết không, Tom chỉ là thằng anh khác mẹ của tao. Tao cũng ít khi gặp Tom. Bà già anh ta là vợ đầu tiên của ba tao, một người công giáo. Ông bà lại làm lễ cưới trong một nhà thờ Tin lành, nhưng hai người sống với nhau không bao lâu, rồi bà ấy trở về Boston thành phố cũ của bà, đem theo Tom.Rollo để cái thư lại trên bàn, châm một điếu thuốc và nằm dài, gối đầu bằng hai tay xếp tréo. Anh nói tiếp:- Tom thuộc loại trí thức. Tom viết nhiều truyện ngắn, nhiều vở kịch…có nhiều tác phẩm đăng ở các tạp chí. Được trả khá bộn tiền. tao biết Tom sơ sơ khi cùng học ở trường đại học William anh Mary. Anh ta học năm chót lúc tao mới vô năm đầu. mà tối ngày anh ta la cà với bọn văn nghệ sĩ. Mày biết không, cái tụi này bàn chuyện thơ văn dưới những ánh đèn nến mờ mờ…bên cạnh các cô nàng thơ ngây, với những bàn tay sờ soạng nham nhở lúc đèn tắt ngấm…mày hiểu loại người như thế này rồi chứ? tao chắc Tom cho tao là một tên ngu dốt, chẳng bao giờ Tom lý tới tao cả. không phải là một đứa xấu. tom rất dí dỏm, lanh trí và miệng lưỡi, đại khái kiểu như thế. hai đứa bây chắc sẽ hợp với nhau lắm vì mày cũng đọc Dickens với mấy thứ vân vân như thế.Ngày đầu tháng Chín lúc bốn giờ sáng, Willie và Rollo đi về khu sĩ quan độc thân với những bước chân uể oải, nặng nề do những miếng thịt heo và whisky đã ăn nhậu tối qua trong bữa tiệc với các cô y tá. Hai người nằm xụm trên giường mình, vẫn còn mở miệng cười và hát hỏng những bài ca vui nhộn Hạ Uy Di. Rồi họ thiếp đi mê mệt.Khi Willie tỉnh giấc, một giọng nói lạ hoắc nói nhỏ bên tai anh:- Keith? Keith hả? anh là Keith phải không?Anh mở mắt ra. Trời tờ mờ sáng. Trong hừng đông le lói anh nhận ra một viên thiếu úy vạm vỡ, nước da rám nắng trong quân phục kaki bèo nhèo, nghiêng người bên anh.- Phải, tôi là Keith.- Vậy thì anh đi với tôi. Tôi tên là Paynter ở chiếc Caine.- Chiếc Caine? – Willie ngồi chồm dậy – Chiếc tàu này đang ở đó hả?- Ờ phải. chiến hạm nhổ neo lúc tám giờ để kéo bia tác xạ. anh thu xếp đồ đạc đi.Willie lấy cái quần dài với một bàn tay uể oải vì còn ngái ngủ.- Anh Paynter à, tôi không mong gì hơn được xuống tàu, nhưng tôi còn thuộc toán sĩ quan tạp dịch.- Đừng có lo, mọi việc sắp xếp xong cả rồi. chiến hạm đã gởi công điện bằng đèn để thuyên chuyển anh. Người ta cũng đã chờ anh lâu rồi, Keith.Hắn tan sợ như vậy một cách nhỏ nhẹ dễ thương, nhưng Willie vẫn bị bắt buộc tự bào chữa.- Tôi đã làm hết cách. Tôi đã lỡ chuyến xuống chiến hạm lần vừa qua hồi tháng Năm, chỉ vì trễ có mấy tiếng. tôi biệt phái ở toán sĩ quan tạp dịch ở đây…- Tôi thì, anh biết không, nếu anh chẳng bao giờ trình diện xuống chiến hạm, tôi cũng chẳng trách gì anh. Làm chuyện đi tìm anh đâu có vui gì. Để tôi giúp anh dọn đồ nghe?Cuộc đối thoại diễn ra không có gì ồn ào cả. Rollo vẫn ngáy đều thoải mái. Đang lục đem ra hết các đồ lặt vặt từ mấy cái hộc tủ, Willie hỏi:- Trên chiến hạm có sĩ quan nào tên Keefer, Tom Keefer hay không?- Trưởng ban của tôi.- Là thằng anh của nó đó.Willie chỉ người đang ngủ. Paynter quay nhìn Rollo, không mấy quan tâm. Willie, lúc này tỉnh ngủ hơn trước, thấy tên sĩ quan của chiếc Caine tỏ ra không vui. Paynter hỏi:- Hắn có gàn gàn ương ương không?- Bộ trưởng ban của anh lẩm cẩm lắm hả?- Tôi không có nói như vậy. giúp tôi một tay, Keith. Ca nô đang chờ chúng ta.- Bộ chúng mình rời Trân Châu Cảng hôm luôn hay sao?- Tại sao anh lại hỏi như vậy?- Bởi vì nếu vậy tôi phải đánh thức Rollo dậy để từ giã.- Không, chắc không đâu. Theo như lệnh quân hành thì không.- Được rồi.Willie gói ghém tất cả đồ đạc và yên lặng mặc áo quần. anh chất theo trên lưng các đồ hộp thức ăn và đi ra, đụng phải cái khung cửa. Paynter đi đàng sau, mang theo hai cái túi. Anh ta lên tiếng:- Mà rồi đừng có ngạc nhiên nếu mình phải đi về hướng Tây và sẽ không nhìn lại thành phố cả năm tới đây. Chuyện đã từng xảy ra như vậy rồi.Trước mặt khu sĩ quan độc thân, trong sương mù ban mai lạnh lẽo, một chiếc cam nhông màu xám của Hải quân ngừng tại đó. Paynter nói:- Xin lỗi, tôi không kiếm được cái xe nào khá hơn. vào 5 giờ sáng, tôi may mắn lắm mới được chiếc xe tồi tàn này thôi. Chúng ta leo lên đi.Chiếc xe chạy trên một con đường đầy những tiếng lọc cọc rôn ràng dẫn tới cầu tàu. những gói hành lý của Willie nhảy lên nhảy xuống phía sau, gần muốn rớt xuống đường. Willie hỏi:- Chiếc Caine ở đâu? – Anh cũng không biết tại sao tên Paynter này lại chẳng muốn nói năng gì cả.- Đang buộc phao trong vịnh.- Anh là sĩ quan hiện dịch hả?- Không phải.- Có sĩ quan hiện dịch nào ở chiến hạm hay không?- Ba người.- Anh là V-7?- Ừa!- Sĩ quan chỉ huy?- Không, cơ khí.- Anh giữ nhiệm vụ gì trên tàu Caine?- Sĩ quan truyền tin.Willie ngạc nhiên:- Vậy sao? Cơ khí mà cho phái làm sĩ quan truyền tin?- Trên chiếc Caine này chẳng có gì lạ lùng hết.- Vậy chắc là anh không ưa chiếc Caine này.- Tôi có nói như vậy đâu.- Chiến hạm thế nào?- Anh sẽ thấy ngay mà.- Có đụng độ nhiều không?- Có mà cũng không.- Anh thuyên chuyển đến chiến hạm lâu chưa?- Cũng tùy.- Tùy cái gì?- Theo cái mà anh gọi là lâu.- Tôi nói một năm là lâu.- Có nhiều khi tôi gọi một tuần là lâu rồi.Chiếc cam nhông ngừng ngay ở trên cao cái bậc thang dẫn xuống cầu tàu.Paynter bóp kèn. Ba thủy thủ đang nằm dài trong chiếc ca nô màu xám, che phân nửa bằng một miếng nylon đầy dầu mỡ. canô cặp dài theo cầu tàu, họ thức dậy với điệu buồn bã rồi leo lên mấy bậc thang. Người nào cũng mặc đồ trây di rách tả tơi, và mấy cái vạt áo bỏ ngoài quần. họ chất hành lý của Willie xuống canô trong lúc Paynter lo kiếm chỗ đậu xe ở một bãi đậu cách con đường chừng vài mét. Hai sĩ quan xuống canô ngồi trên ghế dài bọc da đen, dưới cái mui.- Rồi, Meatball, đi thôi.Paynter nói với người cầm lái, một thủy thủ lớn con ăn mặc rách rưới và dơ dáy không thể tả, đội một bê rê trắng tinh sụp xuống gần tới mũi của hắn.Một tiếng chuông vang lên cạnh tai Willie làm anh nhảy quaa một bên. Người thủy thủ cơ khí cho khởi động máy. sau nhiều lần khởi động không được, anh chàng càu nhàu chửi rủa theo thói quen. Anh này là một thanh niên chưa đầy hai mươi tuổi, nhỏ con và ốm dơ xương, mặt anh ta đầy những vết mụn, chỉ thấy một màu đen thui thủi bởi bô.râu và những vết mỡ. mấy sợi tóc đen và cứng phía trước lại che cả đôi mắt lé của hắn. đầu anh trọc lốc. bạn bè gọi anh là Horrible.Chiếc ca nô vừa rời khỏi cầu, anh cởi chiếc sơ mi ra, để lộ bộ ngực lông lá như khỉ đột.Willie quan sát chiếc ca nô. Nước sơn xám nát vụn trên lớp cây với những dấu vết bất thường của lớp sơn mới được phết lên mà không cạo bỏ lớp sơn cũ. Trên nóc hai cửa sổ được trám vào bằng hai miếng cạc tông thay thế hai miếng kính.Giữa cái tiếng ầm ĩ của động cơ, viên cơ khí lên tiếng:- Thiếu úy, tụi tui ngừng mượn phim được không?- Không được đâu.Horrible nhăn nhó:- Chúa ơi! Điệu này chắc mình chẳng bao giờ còn được coi phim nữa rồi!- Không có ngừng ở đâu cả.Từ đó Horrible bắt đầu lẩm bẩm chửi rủa trong mấy phút. Willie lấy làm lạ vì chàng thủy thủ này ngang nhiên ăn nói tự do sỗ sàng trước mặt một sĩ quan, chờ Paynter sửa trị. Nhưng Paynter hình như chẳng thiết tha gì tới cái lời lẽ xối xả rác rưởi đó hơn là tiếng nước đập vào lườn ca nô. Anh ta ngồi yên đó, mấy ngón tay để xéo trên bụng, đôi mắt nhắm nghiền lại, nhai một dây cao su đang dính trên môi. Willie nói lớn:- Paynter, anh biết tôi sẽ làm việc gì trên chiến hạm không?Paynter mở mắt ra:- Việc tôi đang làm.Rồi anh vừa cười khoan khoái vừa nhắm mắt trở lại.Chiếc ca nô đi vòng một mỏm của Ford Island rồi chạy vào một con kinh ở phía Tây.- Ơ này, thiếu úy – Meatball kêu lên. Hắn đứng dựa trên một cái băng phía sau khít bánh tay lái – Chiến hạm đi mất rồi!Paynter trả lời:- Bộ anh điên hả, Meatball? Nhìn kỹ lại đi. nó ở R6, trước chiếc Belleau Wood.- Tôi đã nói là, ông ơi, những cái phao trống trơn. Lạy Chúa tôi, ông nhìn lại coi!Anh ta kéo sợi dây chuông kêu leng keng. Chiếc ca nô đi chậm lại và bắt đầu lắc lư trên sóng. Paynter leo lên trên:- Trời đất! nó đi mất rồi. mấy ngài này làm cái gì kỳ vậy?- Chắc nó chìm rồi quá – tiếng của người thủy thủ ngồi chò hỏ phía trước, một thanh niên nhỏ thó, gương mặt con nít, có một dấu xâm hình tục tĩu trên ngực.Meatball nói:- Mình không có may mắn đến vậy đâu.Horrible tiếp lời:- Có thể lắm chớ. xếp Budge cho tụi nó gõ sét ở phòng máy số hai. Tôi có nói với bọn nó rằng mình may mắn lắm nên còn có lớp sét rỉ để chận cho nước khỏi vô thôi mà.- Mình làm sao đây, Thiêu úy? – Meatball hỏi.Paynter trả lời chậm rãi:- À…mà để xem…Bọn họ không thể khởi hành mà thiếu chiếc ca nô. Chắc là đổi chỗ neo thôi. Dòm kỹ lại một chút xem.Horrible cho ngừng máy. chiếc ca nô trôi nhẹ nhàng trước một cái phao màu đỏ đang nhảy lên nhảy xuống trong con kinh. Từ mặt nước xông lên mùi nồng nặc của dầu cặn và rau cỏ hư thối.- Nó kia kìa! – Meatball vừa nói vừa giựt cái chuông.- Ở đâu? – Paynter hỏi.- Trong ụ sửa chữa, ngay bên tay phải chiếc Saint-Louis.Anh ta quay mạnh tay lái. Chiếc ca nô đổi hướng. Paynter đồng ý:- Ờ há. Không chừng mình được ở lại bến thêm một ít lâu nữa cũng nên.Anh đi xuống dưới mui.Willie đưa mắt về hướng Meatball đang nhìn, chả thấy gì giống chiếcCaine cả. cái ụ sửa chữa đầy những tàu nhưng Willie không nhìn được chiếc tàu vớt mìn mà anh đã thấy trong những tâm hình. Anh hỏi Meatball:- Nè, Meatball, chiến hạm chỗ nào đâu?- Kìa, nó đó.Hắn lắc đầu một cái chỉ tới một điểm mãi xa ở cuối chân trời.- Anh thấy nó thiệt hả? – Willie hỏi Horrible.- Tôi nghĩ đúng là nó. trong đám tàu hư nát ở C4.Willie đâm ra tự hỏi chả lẽ mắt của mình bây giờ lại quá kém:- Các anh chỉ thấy cột cờ của nó là cùng. Thấy chiếc tàu bây giờ…có lẽ hơi sớm.Willie thấy mình bị chạm tự ái là không có khả năng nhìn ra được chiến hạm của mình qua cái cột cờ của nó. để chuộc lại cái lỗi lầm thiếu sót đó, anh đứng hẳn người lên để cho gương mặt của anh bị bọt nước văng bắn lên trong suốt khoảng đường còn lại.Chiếc ca nô vừa cặp bên một cái thang dây treo thòng xuống từ một khu trục hạm mới tinh, chiến hạm đầu tiên của bốn chiếc neo trong ụ sửa chữa. Paynter nói với Willie:- Mình lên đi. chiếc Caine đậu bên cạnh chiếc này. Họ sẽ đem hành lý đồ đạc của anh lên sau.Willie leo lên cái dây thang lủng lẳng, chào quốc kỳ, xong chào sĩ quan trực của khu trục hạm và đi băng ngang qua boong chánh. Một tấm ván phủ nhựa đen bắc giữa hai chiến hạm cách nhau chừng một thước. thoáng nhìn chiếc Caine lần đầu tiên, Willie không nghe một cảm giác nào cả. anh mải lo nghĩ tới tấm ván bắc giữa hai chiến hạm. anh chần chừ giây lát. Paynter bước lên tấm ván và nói “Bước theo tôi đây này”. Trong khi Willie đi ngang tấm ván, chiếc Caine hơi lắc ngang, tấm ván nhỏng lên nhỏng xuống mạnh mẽ. paynter nhảy qua được lên boong của chiếc Caine.Willie nghĩ thầm nếu mà Paynter lọt khỏi tấm ván anh ta sẽ bị hai chiếc tàu nghiền nát. Bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ này, anh đặt chân lên tấm ván và đi tới với bước chân dài như hát xiệc. tới giữa tấm ván, phía dưới là nước, anh cảm thấy tấm ván dựng đứng lên. Anh nhảy đại một cái, trong tuyệt vọng, qua tới chiếc Caine được viên sĩ quan trực ôm chầm lấy, la hốt hoảng.- Ơ này! Ông đừng có gấp quá vậy. ông có biết là ông nhảy vô đâu hay không?Paynter giới thiệu:- Rabbitt, đây là thiếu úy Keith, người mất tăm mất tích mình đợi từ lâu đó.- Tôi cũng đoán vậy.Trung úy Rabbitt bắt tay Willie. Anh ta có tầm vóc trung bình, gương mặt dài và một nét vui tươi phúc hậu của dân giả. Rabbitt tươi cười:- Chào mừng anh. Paynter à, anh Harding cũng đã tới nửa giờ trước đây rồi.Paynter nói:- Bà con mới đáo nhậm nhiều quá há!Willie, bây giờ thi không còn bị ám ảnh bởi tấm ván nữa, bắt đầu quan sát hạm kiều của chiếc Caine. Chỗ này thật ồn ào, phủ đầy chất dơ bẩn hôi hám, và đầy những khuôn mặt kỳ dị lạ lùng anh chưa từng thấy. chừng năm sáu thủy thủ đang cạo sét và gõ sét trên mặt boong tàu với mấy miếng cào bằng kim khí. Vài người khác đi ngang qua đó, lưng còm xuống với thùng đầy bắp cải trên lưng, miệng lẩm bẩm chửi rủa. một anh đeo mặt nạ hàn đang đốt một vách bằng lửa khí của mỏ hàn. Ở đâu cũng toàn những vết sơn màu xám còn ướt chen lẫn giữa những vết sơn màu xám cũ khác, sơn lót chì và sét rỉ. những ống đủ màu, vàng, đỏ, xanh, đen…chồng chất lên nhau và uốn khúc trên boong, còn lại là những miếng vỏ cam, mấy tờ tạp chí nát bét, và mấy cuốn giẻ rách la liệt đó đây. Phần đông các thủy thủ đều mình trần, râu ria dài thườn thượt với các bộ tóc tai kỳ lạ. tiếng chửi thề, nói tục vang lên khỏa lấp cái không khí ở đây như một đám sương mù nặng trĩu.Rabbitt than thở:- Có trời mới biết là phải cho anh ở đâu. Trong phía khu sĩ quan không còn một cái giường nào cả.Paynter xen vô:- Hạm phó cũng sẽ tìm ra một chỗ chứ.Rabbitt tiếp:- Được rồi, Keith, anh bây giờ là nhân viên của chiến hạm. paynter, anh dẫn anh ta đến trình diện hạm phó được không?- Được chớ. Keith, đi theo tôi nào.Paynter chỉ cho Willie leo xuống một cái cầu thang như mình, đi ngang qua một hành lang tối lắm, kín mít. Paynter nói:- Đây là boong giữa.Rồi anh mở một cánh cửa ra, nói tiếp:- Phòng ăn sĩ quan ở đây.Họ đi ngang qua một phòng hình chữ nhật lớn bằng bề ngang của chiến hạm, đồ đạc để lung tung, một cái bàn dài chiếm gần hết căn phòng được phủ bằng một miếng vải đầy tì vết, có bộ dao nĩa muỗng bằng bạc, những hộp ngũ cốc và những bình sữa. sách vở và báo chí bày la liệt trên những chiếc ghế dài và ghế dựa bằng da đen. Willie lại còn ngạc nhiên sửng sốt hơn khi thấy các tài liệu kín lại lẫn lộn với các tờ báo lá cải, dâm ô và những thứ tùm lum khác. từ giữa cái phòng ăn dẫn ra một hành lang tới các phòng ngủ. Paynter vô một phòng đầu tiên bên phải, anh giới thiệu:- Thưa hạm phó, đây là thiếu úy Keith. Keith, đây là Hạm phó, đại úy Gorton.Một người trẻ tuổi mập ù, chỉ bận cái quần xà lỏn, ngồi trên giường vừa ngáp vừa đưa tay gãi bên sườn. xung quanh là mấy bức tường màu xanh lá cây đầy những hình vẽ lòe loẹt những cô gái ăn mặc hở hang.- Chào anh Keith. Quỷ thần ơi, mà mấy tháng nay anh đã ở đâu vậy?Đại úy Gorton nói với giọng cao gắt, ông ta cũng vừa đưa cặp đùi đồ sộ của mình ra khỏi cái giường.Gorton bắt tay Willie. Paynter đặt câu hỏi:- Minh để anh ta ở đâu?- Trời đất, tôi cũng không biết nữa. tôi đang đói bụng gần chết đây. Tụi nó có đem trứng tươi về không? những cái trứng lãnh ở Tân Tây Lan, ăn vô kể như bao tử ruột rà tiêu đời nhà ma hết.- Ấy kìa có hạm trưởng tới. coi hạm trưởng cho chỗ nào đây – Paynter vừa nói vừa nhìn ra phía hành lang.- Thưa Hạm trưởng, Thiếu úy Keith mới tới trình diện chiến hạm- A, tóm cổ được y rồi hả? Giỏi quá.Một giọng nói châm biếm và đầy uy quyền vang lên và ông hạm trưởng của chiếc Caine hiện ra ở ngưỡng cửa. willie quá đỗi kinh ngạc. ông hạm trưởng trần như nhộng, một tay cầm cục xà bông Lifebouy, tay kia cầm một điếu thuốc mới đốt. ông ta có bộ mặt nhăn nhó, không trẻ không già, lông lá màu hung phủ trên một lớp da trắng và mềm nhũn.- Chào mừng tân đáo chiến hạm, Keith.- Cảm ơn hạm trưởng.Willie thấy có một nhu cầu chào kính, tỏ ra một sự kính trọng nào đó đối với thượng cấp. thế nhưng anh cũng còn nhớ một điều luật trong Hải quy nói rõ là không nên chào kính một thượng cấp không mũ nón. Và anh cũng chưa bao giờ thấy một thượng cấp không có mũ mãng đến cỡ này.Hạm trưởng De Vriess nở một nụ cười trước cái lúng túng của Willie, đồng thời ông ta gãi sau lưng mình bằng cục xà bông:- Tôi hy vọng anh biết qua về truyền tin, Keith.- Dạ, tôi có làm công việc này ở bộ tư lệnh Thái Bình Dương trong…trong lúc chờ đợi chiếc Caine, Hạm trưởng.- Tốt lắm, Paynter, anh trở lại làm phụ tá cơ khí trưởng kể từ bây giờ.- Cảm ơn hạm trưởng.Cái bộ mặt thê thảm của Paynter bỗng nhiên trở nên rạng rỡ, hạnh phúc. Anh ta thở phào nhẹ nhõm như một con ngựa vừa được người ta tháo dây cương. Anh ta hỏi:- Hạm trưởng mình tính cho vị tân sĩ quan truyền tin này ở đâu được?- Maryk có kê một cái giường ở phòng thuốc súng hay chưa?Dạ rồi, hạm trưởng, chỗ này đây để cho một sĩ quan mới khác, thiếu úy Harding.- Được rồi, nói với Maryk để ở đó thêm một cái giường nữaHạm phó xen vào:- Ở đó một người ở cũng đã là chật ních rồi, Hạm trưởng.- Chiến tranh là thời buổi rất khó khăn. Tôi tắm một phát không thì sẽ bị chết cóng mất.Hạm trưởng De Vriess hít một hơi thuốc, dập điếu thuốc vào cái gạt tàn thuốc làm bằng vỏ đạn đại bác 76 ly 2, rồi ông ta bước ra. Viên đại úy mập ù nhún vai và mặc cái quần rộng lớn như một tấm lều. ông ta quay qua Paynter:- Vậy chịu thua thôi, Paynter, anh đưa Willie tới phòng wed súng.Willie nói với hạm phó:- Hạm phó, tôi sẵn sàng bắt tay vào việc ngay.Gorton ngáp một cái, nhìn Willie bằng một cặp mắt bông đùa:- Anh đừng gấp gáp gì. Cứ tà tà đây đó trên tàu vài bữa để quen nước quen cái. Tại vì đây là nơi dung thân của anh hơi lâu, hơi lâu lắm đó.- Tôi không có vấn đề gì, hạm phó. Tôi nghĩ cũng đã đến lúc tôi phải có một chút hải vụ.Anh vốn chấp nhận ở đây sáu tháng tới một năm. Và đó là một năm thử thách trong vùng đầy dã thú, cái thử thách này mà phụ thân anh đã đê cập trong lá thư của ông, anh sẵn sàng chạm trán với nó.Viên hạm phó nói thêm:- Anh nghĩ như vậy thì tốt lắm. biết đâu chừng anh sẽ phá kỷ lục của tôi. Sáu mươi bảy tháng trường trên chiếc tàu thổ tả này.Willie thầm làm bài toán, chia con số sáu mươi bảy cho mười hai, anh thấy điếng hồn.Gorton tiếp:- Chắc có cái gì đó đặc biệt, không khá được trên mấy chiếc trục lôi hạm, khiến cho phòng nhân viên của bộ tư lệnh không có thay đổi thủy thủ đoàn, kể cả sĩ quan. Có thể là ở Hoa Thịnh Đốn người ta lạc mất hết cả hồ sơ rồi. chiến hạm có hai thượng sĩ đã ở đây hơn một trăm tháng, hạm trưởng De Vriess bảy mươi mốt tháng. Vậy anh muốn có hải vụ, anh sẽ được toại nguyện…Anh thấy rõ rồi chứ…Vui mừng có anh với chúng tôi…Thôi, một lát nữa gặp anh sau.Willie đi theo Paynter từ boong chánh tới cái phòng thuốc súng, đó là một cái hộp thiếc chừng hai thước bề dài, một thước bề ngang và cao hơn hai thước. chỗ duy nhất thông ra bên ngoài là cai cửa ra vào. Từ dưới nên lên cao hơn một thước là một cái kệ ngắn dính vào một trong mấy tấm vách, những băng đạn đại liên chỉ còn dây, những thùng đạn hỗn độn trong mấy góc phòng. Thiếu úy Harding ngủ trên một cái giường sắt vừa được hàn dính vào vách, những dấu tích của các vết hàn này lại tô thêm vẻ ‘duyên dang’ đặc biệt của toàn thể căn phòng. Harding nằm ngủ với cái mặt đẫm mồ hôi, chiếc áo sơ mi của anh ta đầy những vết đậm màu. Nhiệt độ trong phòng lên tới 105oF, hơn 40oC.Willie thốt lên:- Ô! Cái ấm áp của mái ấm gia đình!Paynter chỉ người nằm ngủ:- Anh Harding này tất phải có cái máu Caine ở trong người. mới đổi tới mà anh ta đã hòa mình với chiến hạm một cách tuyệt vời. rồi sẽ có những thuyên chuyển một ngày gần đây, cuối cùng anh sẽ được ở tại khu sĩ quan.Paynter dợm bước đi.Willie hỏi:- Tôi muốn gặp Keefer, thì ở đâu?- Trong giường ổng – Paynter trả lời.- Tôi muốn nói là cuối ngày.- Tôi cũng nghĩ vậy – Paynter biểu lộ đồng ý rồi rời phòng.Willie đi tới đi lui trên chiếc Caine trong hai tiếng đồng hồ, ghé mắt nhìn ngắm chỗ này, chỗ nọ, hành lang, nắp hầm tàu. các thủy thủ thì không hề nhận biết anh là ai, như một kẻ vô hình, trừ trường hợp ở trong một hành lang anh chạm mặt với một trong mấy người.Người thủy thủ áp sát mình trong một tấm vách, một cách tự động như là để tránh đường cho một con thú khổng lồ. chuyến du ngoạn bỏ túi này xác định lại cái cảm giác ban đầu của anh. Chiếc Caine là một chiến hạm thổ tả, hư hao cũ kỹ đã tới hạn kỳ phế thải rồi, với một thủy thủ đoàn không khác chi một bọn cướp biển.Sau đó, anh tới phòng ăn sĩ quan. Ở trên đầu anh những tiếng cạo gõ sét vẫn liên hồi làm đinh tai nhức óc. Cái bàn dài bây giờ phủ một tấm khăn màu xanh lá cây, trên những cái kệ mấy tờ sách báo tạp chí đã được sắp xếp thứ tự. chẳng có ai ở trong đó ngoại trừ một thủy thủ da đen dơ xương bận quần dài, mặc áo thun trắng đầy mồ hôi. Hắn đang cắm đầu cắm cổ lau khô cái sàn bằng một miếng giẻ lau.- Tôi là thiếu úy Keith, sĩ quan mới tới. cho tôi một tách cà phê được không?- Dạ được, Thiếu úy.Người thủy thủ tiếp vụ bỏ miếng giẻ lau xuống, và đi vội tới cái máy cà phê gắn trong một góc, trên một bục kim khí. Willie hỏi anh ta:- Anh tên gì?- Whittaker, hạ sĩ tiếp vụ. thiếu úy có cầ n sữa và đường không?- Cần, anh cho tôi.Willie nhìn xung quanh căn phòng. Một tấm bảng đồng vàng ố cho phép anh khám phá ra rằng chiến hạm đã được đặt tên từ một nhân vật Arthur Wingate Caine, hạm trưởng Khu trục hạm ở thời Đệ nhất thế chiến, đã bỏ mình vì bị thương sau một cuộc hải chiến với một tàu ngầm Đức. Ở một ngăn tầng trên của tấm bảng đồng, trong những tài liệu hải quân có một tập sách bìa da nhan đề “Tổ chức nội bộ trục lôi hạm Caine, DMS 22”. Willie cầm lấy nó. người thủy thủ tiếp vụ để tách cà phê trước mặt anh. Willie hỏi hắn:- Anh ở trên chiếc này bao lâu rồi, Whittaker?- Bốn tháng, Thiếu úy.- Anh chịu ở đây không?Người thủy thủ da đen lùi bước, trố mắt ra nhìn Willie như thể là viên sĩ quan đang chĩa con dao ngay cổ hắn. hắn lặp bặp:- Chiến..chiến hạm khá…khá nhất của hải quân đó, thiếu úy.Trả lời xong câu hỏi hắn cầm lấy cây chổi và chạy nhanh ra khỏi phòng.Tách cà phê đã nguội, đầy cặn. Willie cũng uống như thường. anh cần một cái gì để lên tinh thần. một giấc ngủ ngắn ngủi một tiếng đồng hồ không làm anh lấy lại sức được sau buổi dạ tiệc với mấy cô y tá. Anh đọc một cách mơ hồ những đặc tính của chiếc Caine. Khu trục hạm này được đóng vào năm 1918 ở Rhode Island (anh lầm thầm ‘nó già hơn mình’), bề dài trăm thước, ngang mười thước, có thể chạy tới 30 gút. Khi được đổi thành trục lôi hạm, người ta đã phá bỏ một ống khói và một nồi xúp de, để làm thêm những hầm chứa dầu cặn, với mục đích nới rộng tầm hoạt động của chiến hạm.Trên đầu anh những tiếng cạo gõ sét càng ồn ào, một đám tạp dịch khác được phái tới để tăng cường. trong phòng ăn sĩ quan không khí càng trở nên nặng nề và nóng bỏng với ánh mặt trời đang lên. Willie đọc trong quyển sách “Trục lôi hạm có một nhiệm vụ là rà sạch vùng nước của địch để chuẩn bị hải lộ cho các lực lượng oanh tạc hay tiến chiếm”. anh để quyển sách lên bàn, gục đầu trên sách, thở ra. Một giọng nói vang lên:- Chào anh, anh là Keith hay Harding?Người vừa lên tiếng, ăn mặc chỉ có cái xì líp, tiến tới cái máy cà phê, nửa tỉnh nửa mê như trong giấc ngủ. Willie nói thầm với mình rằng việc ăn mặc trên chiếc Caine này đúng là một sự giản dị quá mức, hơn cả của một bộ lạc thổ dân thời thượng cổ. anh trả lời:- Keith.- Tốt quá. Anh làm việc với tôi.- Đại úy Keefer?- Ừa.Viên sĩ quan truyền tin dựa người vào cái tủ và uống cà phê. Ông ta chẳng giống người em chút nào. với cái bộ mặt dài thon, Tom Keefer cao hơn một thước tám, vóc dáng thanh tú và một khổ người nhỏ thó. Ông ta có cặp mắt xanh dương sâu hoắm, một đôi mí mắt tỏa ra một màu trắng toát làm cho cái nhìn của ông ta có cường độ và dữ dằn. ông ta cũng có cái miệng rộng như Roland, nhưng không phải xương xẩu, đôi môi ông ta mỏng và lợt lạt.Willie nói:- Tôi biết người em Roland của anh. Tụi tôi ở cùng một phòng trong trường Hải quân. Nó đang ở Trân Châu Cảng, trong khu sĩ quan độc thân.- Vậy sao? Phải kêu nó xuống đây chơi mới được.Keefer để tách cà phê xuống.- Anh tới phòng tôi và nói chuyện đôi chút về anh.Keefer ở trong một cái phòng nhỏ xíu, trước hành lang trên đầu chằng chịt ống nước. một cái giường đôi được đặt theo cái phần lõm bên hông chiến hạm, cũng có một cái bàn trên đó để đủ thứ sách vở, có mấy cái giỏ đầy những xấp tài liệu và một mớ ân phẩm được đánh số nằm dưới một mớ quần áo mới ủi. Ở cái giường trên một người nằm ngủ khỏa thân toàn diện.Trong khi viên sĩ quan truyền tin đang cạo râu và mặc đồ, Willie tả lại cho ông ta việc học chung ở trung tâm Furnald Hall với Roland. Anh đưa mắt nhìn quanh căn phòng. Trên những cái kệ gắn liền với tấm vách trên bàn, và dài theo cái giường của Keefer, anh nhìn thấy một số sách thi ca đủ loại, tiểu thuyết, khảo luận triết học. tất cả thành một đống sách vở khổng lồ, thấy dễ nể, người ta có thể nói là danh sách của Một Trăm quyển sách hay nhất, với phần chọn lọc của văn học hiện đại tiểu biểu với các tác phẩm của Joyce, T.S.Elliot, Proust, Kafka, Dos Passos và Freud, một vài sách về phân tâm học, một vài cuốn khác đề tên một nhà xuất bản Công giáo.Willie nói- Anh có một tủ sách thật tuyệt.- Cuộc đời này là một sự tự sát lần hồi nếu người ta không đọc sách.- Roland đã nói với tôi là hồi xưa anh có viết văn?- Tôi đã cố gắng trở thành văn sĩ trước chiến tranh – Keefer vừa nói vừa lau mặt của mình, chùi những miếng bọt cuối cùng bằng một cái khăn rách nát.- Bây giờ anh có viết lai rai không?- Tí ti thôi. Mà này, liên quan đến nhiệm vụ của anh…Anh được giao việc ghi chép những công văn, và lẽ tất nhiên anh phụ trách luôn phần mật mã.Whittaker, người thủy thủ tiếp vụ, ló đầu qua khỏi tấm màn cửa xanh lá cây đầy bụi bặm:- Hooptchao!...- và hắn biến mất.Câu nói đầy huyền bí này tự nhiên có khả năng phục hồi thể lực cái thân thể đang nằm ở giường phía trên. Hắn bật người dậy, tay rờ cằm của hắn một cách mơ hồ, nhảy xuống sàn và bắt đầu mặc quần áo.Willie hỏi:- Hooptchao..nghĩa là gì?Keefer giải thích:- Hooptchao..húp cháo, thổ ngữ của nhà bếp, có nghĩa là ăn trưa. Cái chữ này nếu thêm một cái mặt là…Carmody. Carmody, giới thiệu với anh một con người có biệt tài trốn lánh, ông Keith.- Hân hạnh – Willie mở lời chào.- Hừm – viên sĩ quan cúi xuống tìm đôi giày của mình ở tận trong cái đáy sâu tăm tối của cái hộc để giày dép.Keefer nói với cả hai người:- Tụi mình đi đi, để gặp tất cả sĩ quan của chiếc Caine này. Đây có chỗ nào mà tránh né được Willie. Cơm trưa ở đây…ăn cũng tạm được, không đến nỗi nào.