Cầu nguyện

    
uối cùng thì cú sốc phải ngồi xe lăn cũng đã hết. Mọi thứ đã trở nên rõ ràng hơn. Tôi không còn tính những chuyện viển vông đâu đâu nữa và có thể thả lòng mình trong sự im lặng của bạn bè, những người đã bao bọc, quan tâm tới tôi từ khi tôi bị tai biến. Không còn là chủ đề cấm kị, chúng tôi thường xuyên nói về hội chứng bị nhốt trong tiềm thức. Trước hết, đây là một căn bệnh hiếm gặp. Xác suất rơi vào căn bệnh kinh khủng này cũng ngang với xác suất trúng xổ số giải đặc biệt. Nhưng điều này cũng không an ủi tôi nhiều lắm. Tại Berck chỉ có hai người mắc hội chứng này, một hội chứng vẫn còn là chủ đề gây tranh cãi. Tôi trải qua nhiều đau đớn khi quay đầu lại, điều này không được dự báo trong bảng lâm sàng. Như hầu hết các trường họp sống thực vật, tiến triển của căn bệnh này vẫn chưa sáng tỏ. Người ta chỉ biết rằng nếu có phép màu nhiệm làm cho hệ thần kinh hoạt động trở lại thì nó cũng sẽ diễn ra với tốc độ vô cùng chậm. Do vậy, có thể phải nhiều năm nữa tôi mới cử động lại được các ngón chân.
Trong thực tế, vẫn còn phải tìm cách cải thiện dần đường hô hấp. Trong một khoảng thời gian dài, tôi hi vọng có thể quay trở lại cách ăn uống bình thường mà không cần dùng tới ống sonde hay có thể thở tự nhiên một chút mà không cần dùng tới máy trợ thở.
Hiện tại, tôi sẽ là người hạnh phúc nhất trên thế gian nếu như tôi có thể dễ dàng nuốt lượng nước bọt dư thừa lúc nào cũng đầy trong miệng mình. Trong khi chờ để có cảm giác hạnh phúc đó, tôi vẫn luyện tập để trượt lưỡi vào sâu trong vòm họng để tạo phản xạ nuốt. Ngoài ra, tôi đưa tới thanh quản mình các gói bột thơm hay các thẻ cầu nguyện do những người bạn của tôi tặng sau các chuyến du lịch. Đó là một bia đá ở ngôi đền tạ ơn chúa mà những người thân của tôi đã xây dựng trong những chuyến hành hương. Khi đi qua các vùng miền, họ gọi tới nhiều linh hồn khác nhau. Tôi cố gắng sắp xếp một chút đám linh hồn đông đảo ấy cho trật tự. Nếu được báo trước rằng vì tôi, người ta đã đốt vài cây nến trong một nhà thờ Anh hay ê a một bài kinh trong đền thờ Nêpan, tôi đã định ngay trong đầu một nguyện cầu cụ thể cho những nghi lễ thiêng liêng ấy. Tôi cũng gửi gắm con mắt phải dưới sự bảo trợ của cái lông đuôi cò già Cameroun mua bằng ngân phiếu mà cô bạn tặng cho nhằm bảo đảm tôi được hưởng lòng nhân từ của các vị thần châu Phi. Tôi đặt niềm tân cho các vấn đề thính giác của mình vào mối quan hệ tốt đẹp với các thầy tu trong giáo hội Bordeaux. Họ thường xuyên đọc kinh lần tràng hạt làm phép cho tôi và thỉnh thoảng tôi cũng ghé qua tu viện nghe những điệu hát vang vọng. Kết quả không có gì đặc biệt nhưng khi bảy anh em nhà kia lần lượt bị những kẻ Hồi giáo cuồng tín cắt cổ thì tôi đau tai suốt mấy ngày tròi. Tuy thế, những thế lực bảo vệ từ trên cao kia cũng chỉ là bờ thành bằng đất sét, cát hay phòng tuyến Maginot(1) khi đặt cạnh lòi cầu nguyện giản dị mà con gái Céleste của tôi gửi tới Chúa hàng đêm trước khi ngủ. Vì chúng tôi ngủ gần như cùng lúc, khi đó tôi liền lên tàu tới xứ sở những giấc mơ. Lời cầu xin che chở tuyệt vời đó giúp tôi tránh khỏi những cuộc gặp gỡ không mấy dễ chịu trong cuộc hành trình.
Chú thích
(1) Phòng tuyến Maginot: được đặt theo tên chính trị gia André Maginot, là một phòng tuyến gồm công sự do Pháp xây dựng suốt dọc biên giới với Bi, Luxembourg, Đức và Italia trong những năm 1920-1930.