2 - Bản năng giới tính của trẻ em
Phần 13

Vấn đề ngôn ngữ
Từ khi trẻ chưa có vốn từ vựng cần thiết để chỉ cơ quan sinh dục cũng như các bộ phận khác của cơ thể, mọi thứ diễn ra như là các cơ quan sinh dục không thuộc cái tôi của trẻ, cứ như các cơ quan này bị đào thải khỏi hệ thống cơ thể. Sự khác biệt xuất hiện khi mà trẻ biết rằng các cơ quan này tồn tại nhờ những kinh nghiệm hàng ngày của sự hứng thú mà trẻ có được. Những cuộc điều tra gần đây đã chỉ ra rằng có rất nhiều trẻ em ở độ 4 đến 5 tuổi không hòa nhập được phần rốn của chúng như mọi phần khác.
Ngày nay người ta biết rằng thời điểm tốt nhất cho sự phát triển ngôn ngữ vào khoảng từ 2 đến 4 tuổi tương đương với thời kỳ phát triển của các giác quan và sự độc lập về mặt cơ thể.
Trong thời kỳ học hỏi này, ngôn ngữ của một em bé từ 2 đến 4 tuổi cần những từ ngữ đúng mực ngắn gọn và có ý nghĩa không khó hiểu rắc rối để phát triển tư duy của trẻ và nghe ngóng sự ảnh hưởng của nó tới môi trường.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà vốn từ vựng của người Esquimau gồm có 30 thuật ngữ khác nhau để chỉ “tuyết” trong các điều kiện khác nhau. Và cũng không phải ngẵu nhiên nếu âm vật không có bất cứ một thuật ngữ nào tương đương trong ngôn ngữ thường ngày, và nếu các bậc cha mẹ tỏ ra khó khăn khi gọi tên và nhìn nhận nó như một chức năng.
Cái chính là ngoài chức năng hứng thú ra, âm vật không đảm nhận bất cứ một mục đích sinh lý nào khác: dương vật thải nước tiểu và tinh trùng để thụ tinh, trực tràng bài tiết các chất. Còn âm đạo cho phép đứa bé sơ sinh được ra qua đó. Nhưng âm vật? Người ta có thể xác định nó như thế nào nếu không đề cập đến quan niệm hứng thú.
Những thử nghiệm về tình dục và các trò chơi giới tính
Một cái bẫy phá hoại khác mà chính nó rất nhiều trẻ em bị quy là không thể tiến hành các thử nghiệm về cảm giác của mình. Ngày nay trong xã hội phương Tây của chúng ta vẫn còn sự không ăn nhập giữa bản chất và chức năng các trò chơi giới tính ở các thời điểm khác nhau của thời thơ ấu, đây là biểu hiện của một quá trình chuẩn bị thực sự cho đời sống tình dục khi trẻ trưởng thành. Những thử nghiệm của Harlow đã chỉ ra điều này ở loài khỉ. Nghiên cứu về các xã hội nguyên thuỷ người ta rất lưu ý đến giới tính ở phái nam, một số hìmh thức của trò chơi giới tính được thay đổi từ xã hội này qua xã hội khác, tạo thành một điều kiện tiên quyết của sức khoẻ giới tính về sau.
Cũng như vậy, sự học hỏi rất khó khăn về hành vi âu yếm, hành vi dâm ô được tiến hành trong môi trường gia đình từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời thông qua các chẩn đoán thuộc chứng ơ-đíp (oedip) và sự đối nghịch trong gia tộc.
Một câu hỏi chủ yếu khác đã tìm đuợc vị trí của mình đó chính là kinh nghiệm bước đầu về vai trò của các bộ phận sinh dục. Kinh nghiệm này được biến đổi theo thái độ không dứt khoát của cha mẹ và các nhà giáo dục. Ngày nay, các trò chơi của bé trai và bé gái không còn khác xa nhau là mấy và trong các trò chơi chung thì bé gái thường tỏ ra sáng tạo hơn bé trai. Nếu sự ham muốn của các bé trai luôn luôn bị lép vế trong môi trường có nhiều nữ giới, bé trai bắt đầu biểu hiện sự ghen ghét với khả năng tiếp cận với giới bên ngoài.
4. Đâu là những khám phá cơ bản về bản năng giới tính ở trẻ em trong thời đại chúng ta
Nghiên cứu khoa học về các trò chơi, các câu chuyện, những từ ngữ được sử dụng của trẻ em, trong sự thầm kín riêng tư của các mối quan hệ, Freud miêu tả ở nơi có cuộc sống yên ổn với cha mẹ đã chỉ ra thực tế của 3 thời kỳ phát triển giới tính của trẻ em, như sau:
-  Ở thời kỳ tập nói, những từ khóa được bọn trẻ sử dụng như “ăn”, “uống”, “kẹo”, “bánh”, trả lại biểu tượng của thực phẩm và chức năng dinh dưỡng.
-  Ở thời kỳ sau đó những từ ngữ rất hay được sử dụng xung quanh, những con vật (lợn, ruồi, bò, gà…) và chức năng bài tiết (ị, đái…).
Vào thời kỳ phát triển của cơ quan sinh dục những câu chuyện, những bài thơ được hình thành vô thức xung quanh sự hấp dẫn thu hút giữa các anh em trai và em gái, hành vi tình dục của bố mẹ.
Trước thời kỳ tập nói đã tồn tại quá trình phát triển của da còn quan trọng hơn tất cả các quá trình khác. Nó quyết định sức khỏe giới tính của thời kỳ trưởng thành, chứng loạn thần kinh, sự lệch lạc của trẻ, theo luận đề của Freud người đạt đến mức thành thục không phải là người phát triển về cơ quan sinh dục mà là người đã phát triển dục tính ở khắp bề mặt của cơ thể không chỉ ở riêng các bộ phận sinh dục. Sự phát triển của phạm vi da cho phép xóa đi sự phân chia giữa các vùng động dục. Nó bắt nguồn và kết thúc từ sự tồn tại của yếu tố động dục học của loài người. Từ khi con người mới sinh ra, hệ thống giác quan cho phép người ta có kinh nghiệm về đụng chạm ngay lập tức và tác dụng tương hỗ, kinh nghiệm này là nguồn gốc của quá trình xã hội hóa của trẻ.
Chính nhờ hành vi va chạm với mọi người, trẻ học hỏi sự đau đớn và niềm hứng thú, những cái có thể và không thể, những cái đạt được và không đạt được. Tóm lại, trẻ có thể hòa nhập được vào nền văn hóa xứ sở và thời đại mà nó đang sống.
Sự phức tạp khá nổi tiếng của chứng ơ-đíp (oedip) phát triển từ sự hấp dẫn của trẻ với cha mẹ có giới tính đối lập cũng như bắt đầu từ sự cạnh tranh của cha mẹ để có được tình yêu ở trẻ.
Tuy nhiên, mặc dù tài năng xuất chúng của mình Freud đã không nhận ra một số vấn đề nếu như không muốn nói là đã phạm một số sai lầm.
Sự tác động của “cảnh nguyên thủy” được đề cao quá mức, tuy không một cá nhân nào có thể thực sự chối bỏ được nó. Những yếu tố tác động đến trẻ không hoàn toàn là “cảnh yêu đương” của bố mẹ mà là những hình ảnh thực sự gây xúc động cho nó.
Thời kỳ tiềm ẩn không tồn tại, thời kỳ này Freud đã từng xác định nó như một giới tính tĩnh nhưng lại biểu hiện một thời kỳ bão tố về tình dục. Nghiên cứu của Goldman được tiến hành vào năm 1982 với 800 đứa trẻ 5 tuổi, ông không thấy bất cứ một sự tồn tại nào của thời kỳ tiềm ẩn. Một đứa trẻ chưa đến tuổi thiếu niên dưới 14 tuổi luôn nhắc đi nhắc lại những vai trò giới tính và qua đó học nghi lễ của sân chơi tình ái. Ngày nay, những khả năng về tình dục của trẻ không còn là vấn đề bàn cãi nữa.
Bản năng thủ dâm ở trẻ có thể giúp trẻ phát triển sự khéo léo của đôi bàn tay cũng như não bộ và những xu hướng phô bày của chúng. Điều đó khẳng định bản tính giới tính của trẻ hơn là để thỏa mãn một động cơ tình dục. Cũng như vậy, sự hấp dẫn tình dục của người trưởng thành không có một mục tiêu nào khác ngoài việc tạo điều kiện thụân lợi cho sự tiếp xúc giữa cá nhân có giới tính đối lập.
Sự học hỏi các khái niệm “tục tĩu” và “ngượng ngùng” được tiến hành thông qua cách xử sự và những ngôn ngữ hạn hẹp do người lớn áp đặt.
Thực vậy, đứa trẻ sinh ra đã có khả năng hiểu được những dấu hiệu, cử chỉ của người lớn, đó cũng là một dạng ngôn ngữ đặc biệt. Điều đó nói lên rằng những điều không nói ra có nhiều sự phản ứng hơn cả sự được bày tỏ.
Ngày nay người ta mới biết đến đó là thái độ trừng phạt của gia đình, tôn giáo và xã hội liên quan đến 2 thời kỳ hay quên trong cuộc đời của trẻ.
-  Chứng hay quên đầu tiên của trẻ vào khoảng năm 3 tuổi. Nó ngăn cản sự hồi tưởng về tất cả các hoạt động giới tính đã từng chế ngự nó. Chứng quên này như là rất nhiều cá nhân không còn giữ lại được một hồi ức nào về thời kỳ này.
-  Chứng quên thứ 2 bắt gặp ở thời kỳ trước giai đoạn dậy thì. Một số bậc cha mẹ có niềm tin vững chắc vào con cái và đảm bảo bọn trẻ của họ không bao giờ sử dụng những từ ngữ tục tĩu hay không bao giờ chơi những trò chơi giới tính. Những đứa trẻ được chụp ảnh trong khi chơi các trò chơi này bị phạm tội lần đầu tiên trong thời thơ ấu đã từ chối nhận ra mình trên những bức ảnh mà chúng đang thực hiện các hành vi lầm lẫn trong thời kỳ trước dậy thì. Hai thời kỳ của chứng quên này không tồn tại trong các xã hội không có sự trừng phạt.