Nhân tố quyết định thứ ba đối với hành vi tình dục của con người là nhân tố xã hội. Nhân tố này phức tạp hơn, quan trọng hơn hai nhân tố nói trên (sinh lý và tâm lý), có tác dụng quyết định đối với sự thích ứng tình dục của loài người. Trước khi phân tích nhân tố xã hội, xin nêu ra một ví dụ sau: Toà án địa phương X ở Mỹ đã thụ lý một vụ án sau. Ami 27 tuổi, nhân viên bán hàng ở một cửa hiệu, đã có chồng, yêu chủ hiệu và hai người đã làm tình với nhau. Chủ hiệu cũng đã có vợ, đồng thời duy trì quan hệ tình dục với hai người phụ nữ. Anh ta so sánh cảm thấy mãn nguyện lắm. Vì được hưởng sự khoái lạc kép. Anh ta quen biết chồng Ami nên nói cho anh này biết và giới thiệu vợ mình cho anh này làm tình. Thế là từ đó hai cặp vợ chồng này thường xuyên trao đổi tình dục lẫn nhau, có khi cả 4 người ngủ chung 1 giường. Cuối cùng sự việc bị bại lộ, cả 4 người bị đưa ra toà và bị trừng phạt. Bọn họ không chịu, tranh cãi nói chúng tôi không trộm cắp, cướp của, giết người, đốt nhà, chuyện làm tình là do bốn người đều thoả thuận, sao lại coi là phạm pháp. Có lẽ nhiều người thấy họ cải có lý. Ở đây có vấn đề quan hệ giữa tình dục và xã hội. Khác với động vật, người không sinh hoạt trong điều kiện sinh vật thuần tuý mà là sống trong một thế giới văn hoá. Người không đứng trước giới tự nhiên thuần tuý mà là đối mặt với giới tự nhiên văn hoá. Vì vậy hành vi tình dục của loài người không còn là bản năng tự nhiên thuần tuý mà là bản năng tự nhiên đã được xã hội hoá. Tức là tình dục và yêu cầu tình dục của loài người có thuộc tính tự nhiên, đồng thời lại có thuộc tính xã hội sâu sắc. Mọi ảnh hưởng của chế độ xã hội, hình thái văn hoá, phong tục tập quán đều thâm nhập vào hành vi tình dục và ý thức tình dục của con người. Trong bối cảnh sản xuất xã hội hoá, tình dục cũng xã hội hoá, đã hình thành mô thức tình dục được chấp nhận một cách phổ biến. Tuổi kết hôn phương thức kết hôn, phương pháp cầu hôn, tỏ tình thời gian và địa điểm làm tình đều có một tính chung nhất định. Lấy một ví dụ đơn giản về thời gian sinh hoạt tình dục. Trong xã hội nông nghiệp cổ đại, sinh hoạt của con người tuân theo quy luật làm việc khi mặt trời mọc, nghỉ ngơi khi mặt trời lặn, ban ngày bận lao động sản xuất, chỉ làm tình vào ban đêm. Do cường độ lao động cao lại không có thời gian giải trí nên hay đi ngủ sớm, thời gian làm tình thường sớm hơn so với người hiện đại. Trong xã hội công nghiệp hoá tuần làm việc 6 ngày nên những người lao động chân tay thường chọn tối thứ bảy để làm tình, vì hôm sau là chủ nhật không phải đi làm sớm và có thời gian dồi dào khôi phục thể lực. Vì vậy có người gọi tối thứ bảy là "Đêm tươi mát". Lại nói về địa điểm giao hợp, chủ yếu do điều kiện của xã hội vi mô quyết định. Những người sống ở thành phố ồn ào chật chội chỉ sinh hoạt tình dục ở nhà, kém cẩn thận một chút là bị phát hiện ngay. Ví dụ có cặp vợ chồng giao hợp với nhau trong buồng nhưng kéo màn che không kỹ nên người ở gác đối diện nhìn rõ mồn một, sau còn bị quay phim chụp ảnh mà vẫn không hay biết. Những người sống ở nông thôn có điều kiện làm tình ở nơi thoáng đãng. Trong tiểu thuyết "Cao lương đỏ", một cặp lão ông lão bà đã ân ái với nhau ngay ở cánh đồng. Ông lão cởi áo tơi, dẫm nát trên chục cây cao lương làm đệm, rải áo lên trên rồi để bà lão nằm xuống. Bà lão sợ hết hồn, nhìn tấm ngực trần của ông lão, tựa như thấy một dòng máu chảy mạnh dưới làn da ngăm đen của ông lão. Các ngọn cao lương xào xạc, bốn phía đều có tiếng thì thào của sức sống cao lương. Trời lặng gió, ánh nắng chói chang đan xen giữa các cành lá cao lương. Giao hợp với nhau trong cảnh đại tự nhiên đầy sức sống rõ ràng thi vị hơn và lãng mạn hơn là làm việc với nhau trong buồng kín. Có người đã điều tra phụ nữ Pháp được biết tuyệt đại đa số bọn họ đều thích làm tình ngoài trời, dưới làn mây xanh xanh. Những người quen sống ở thành phố có lẽ cảm thấy ngượng ngùng với cảnh làm tình dã ngoại đó, nhưng trước khi xuất hiện nền văn minh hiện đại thì việc chọn địa điểm giao hợp nơi dã ngoại là hết sức bình thường. Nhưng nếu chỉ nói tác dụng quyết định của nhân tố xã hội đối với hành vi tình dục về các mặt thời gian, địa điểm làm tình thì e rằng nông cạn quá, và có phần dung tục nữa. Chúng ta hãy nói về vấn đề này ở một mặt sâu hơn. Về vĩ mô mà nói, ý thức tình dục và thái độ tình dục của con người chịu sự chi phối của hình thái ý thức xã hội. Sự chi phối này hết sức bức xúc, cái sau đòi hỏi cái trước phải nhất trí với mình nếu không sẽ bị xã hội vùi dập. Ví dụ ở châu âu thời Trung thế kỷ, đạo Cơ đốc trở thành thế lực thống trị xã hội, coi giao hợp là một tội lỗi, con người phải cấm dục chuộc tội mới được lên Thiên đường, nếu không sẽ bị tống xuống địa ngục. Ý thức xã hội như vậy sẽ bóp méo ý nghĩa của hành vi tính giao. Tính giao đã là một tội ác thì con người không được đã biết mà vẫn cố tình vi phạm và phải giữ thân cho tròn. Có người để bảo vệ sự thuần khiết đã phải bỏ cả tập quán tắm gội, trên người có rận không lo mà lại vui vì coi rận là châu ngọc của chúa. Do chủ nghĩa cấm dục rất thịnh hành nên thời đó đã xảy ra nhiều chuyện biến thái tình dục. Tập tục trong thời Trung thế kỷ đã ảnh hưởng cả đến sinh hoạt tình dục bình thường của hai vợ chồng. Giáo hội bảo họ chớ có mong nhận được khoái cảm trong sinh hoạt tình dục, không được ôm nhau hôn hít và hết sức tránh cọ sát xác thịt vào nhau, càng không được kích thích âm vật, khi giao hợp tốt nhất nên cầu nguyện xin thượng đế tha thứ, giảm bớt tội lỗi. Do đó sinh hoạt tình dục của con người thời đó đáng ngán biết bao. Trong thời đại phong kiến ở Trung Quốc, quan niệm của Nho gia "Tôn thiên lý, diệt nhân dục" (giữ lẽ trời, diệt tình dục) đã phủ một tấm màn đen lên hành vi tình dục của con người. "Nam nữ đại phòng" (phòng ngừa nam nữ tiếp xúc với nhau), lên 7 tuổi là trai gái không được ngồi chung một chiếu, bất cứ bộ phận nào của thân thể hai bên trai gái cũng không được tiếp xúc với nhau. Lại còn dùng cái gọi là lễ giáo để quy định người quân tử phải cách 5 ngày mới được giao hợp một lần (quy định cả nhịp độ tính giao thống nhất cho mọi người). Dù là vợ chồng cũng vẫn phải hạn chế bớt hành vi tình dục, khi giao hợp phải tâm niệm đây là hoạt động cho nòi giống sinh tồn chứ không phải là để thoả mãn khoái lạc, nghĩa là "Vi hậu dã, phi vi sắc dã". Trên thường là vợ chồng, ngoài giường phải giữ lễ, vợ chồng phải ở hai buồng riêng, quần áo đồ dùng không được để chung một chỗ, càng không được tắm chung. Vào mùa đông hàng năm, không được giao hợp vì thiên thời lúc đó không lợi cho sinh dục. Các quy định giả tạo nói trên và những cách nhìn thiếu khoa học tất nhiên đã vùi dập tình dục của con người. Bạn cứ tưởng tượng xem, nếu một người vừa giao hợp lại vừa tụng niệm "Vi hậu dã, phi vi sắc dã” thì sự thể sẽ ra làm sao. Đến thập niên 60 của thế kỷ 20, trong xã hội phương Tây, quan niệm xã hội về tình dục lại chuyển sang một hướng cực đoan. Tự do tình dục, giải phóng tình dục đã trở thành trào lưu một thời. Cái gọi là “chủ nghĩa cốc nước" đã nổi lên trong trào lưu này. Phụ nữ trước đây mất trinh bị coi là điều xỉ nhục nhất nhưng hiện nay có một số người lại cho chuyện làm tình với nhau cũng bình thường như uống một cốc nước trắng vậy, thật là tầm thường hết mức. Từ trào xã hội đó đã tác động mạnh mẽ đến hành vi tính giao truyền thống của nhân loại. Hành vi tính giao trước đây là nhị nguyên (chỉ hai người nam nữ với nhau), nay đã thành tam nguyên, tứ nguyên, thậm chí đa nguyên, cả một bầy nam nữ vào rừng tạp giao với nhau. Con người trước đây coi tình dục là một thứ giao lưu quan trọng nhất, chỉ giao hợp với nhau một lần là sẽ ăn ở với nhau suốt đời. Ngày nay, vừa ngủ với nhau xong đến mai gặp lại nhau đã coi như người lạ mặt. Báo chí phương Tây có lần đưa tin: một cô gái Mỹ 16 tuổi thấy các bạn gái xung quanh đều đã có kinh nghiệm giao hợp còn mình thì vẫn là cô gái trinh nguyên nên thấy tủi nhục và đã chủ động đi tìm bạn trai làm tình. Cô gái một không vì tiền, hai không vì danh, ba không vì tình dục mà chỉ vì không muốn làm gái trinh nguyên. Cô đã dụ dỗ hai người đàn ông nhưng đều bị thất bại, đến người thứ ba thì thành công, đó là một vị giáo sư, cô ta được mãn nguyện. Ông giáo thấy cô gái không cần tiền mà lại còn trinh thì lạ lắm. Qua ví dụ trên thấy rõ nhân tố xã hội có ảnh hưởng to lớn đối với hành vi tình dục của con người. Hình thức hôn nhân cũng thuộc phạm trù nhân tố xã hội. Nó có tác dụng quyết định nội tại đối với quan hệ tình dục của loài người. Xã hội loài người hiện đại lấy gia đình làm cơ sở, gia đình lại hình thành với hạt nhân một vợ một chồng. Vì vậy xã hội yêu cầu hành vi tình dục của con người phải lấy việc duy trì chế độ một vợ một chồng làm tiền đề. Nói như vậy chúng ta sẽ hiểu sâu thêm ví dụ nói trên bốn người bọn Ami tạp giao với nhau tuy không xúc phạm đến lợi ích của bất kỳ ai, nhưng đã phá hoại hình thức hôn nhân một vợ một chồng, do đó đã phá hoại sự ổn định xã hội nên quan toà phải thay mặt xã hội trừng phạt họ. Cũng với lý do này mà xã hội đã khuyến khích quan hệ tình dục trong hôn nhân, phản đối quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Xã hội hiện đại ngày càng có thái độ cởi mở hơn đối với hành vi tình dục trước khi cưới (tức hiện tượng tạm ứng trước khi một đôi bạn tình cưới nhau). Điều này cũng có liên quan đến hình thức hôn nhân một vợ một chồng. Trừ bọn người có chuyên môn chơi xấu với bạn tình và buông thả trong tình dục còn phần lớn đều có quan hệ hôn nhân sau khi đã có quan hệ tình dục với nhau. Một khi đã ân ái với nhau rồi thì cả hai bên nam nữ đều thấy có nghĩa vụ và cần thiết phải lấy nhau. Xét theo ý nghĩa đó thì quan hệ tình dục trước khi cưới có lợi cho việc củng cố chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Do đó xã hội thường mặc nhiên chấp nhận. Mấy năm trước ở một số vùng sâu vùng xa đã có hiện tượng thanh niên nam nữ bế con đi xin đăng ký kết hôn. Tuy cũng phê bình họ chưa cưới xin gì đã chung sống với nhau nhưng vẫn nhiệt liệt chúc mừng hạnh phúc của họ. Nhưng quan hệ tình dục trước khi kết hôn cũng là một mối đe doạ rất lớn đối với hình thức hôn nhân một vợ một chồng, nguy cơ đối với bên nữ càng lớn. Sau khi đã có quan hệ tình dục với nhau, nếu xảy ra rắc rồi về tình cảm thì việc kết hôn sẽ dễ bị xoá bỏ và bên nữ mất trinh sẽ có tương lai mù mịt vì bị “giảm giá" trong cuộc cạnh tranh hôn phối. Thỉnh thoảng lại có tin phụ nữ tự sát về chuyện này. Do nguyên nhân đó, xã hội không khuyến khích quan hệ tình dục trước khi lấy nhau. Trong các xã hội khác nhau, quan niệm về tình dục cũng khác nhau, biểu hiện của hành vi tình dục do đó cũng khác nhau. Nhìn theo góc độ đó, tác dụng quyết định của nhân tố xã hội đối với hành vi tình dục lại càng thêm phần lý thú. Người Spartak cổ đại là một dân tộc kiêu dũng, thiện chiến rất chú trọng sức khoẻ của thế hệ tiếp nối. Trẻ con mới sinh ra đã tiên thiên bất túc, có khuyết tật là sẽ bị giết chết. Dưới ảnh hưởng của lề thói xã hội đó, con người không chú trọng phối ngẫu cố định hoá mà chú trọng sức khoẻ của bạn phối ngẫu. Hai người phụ nữ nếu không hài lòng với con cái sinh ra thì có thể trao đổi chồng cho nhau. Sau khi được vợ đồng ý, người chồng yếu đuối, lắm bệnh có thể để cho một gã đàn ông khôi ngô tuấn tú thuê vợ mình tạm một thời gian. Có khi vì mục đích mưu sinh, một phụ nữ có thể quan hệ tình dục với vài ba người đàn ông. Theo người Spartak, quan hệ tình dục với người ngoài bạn đời của mình là một việc làm quang minh chính đại. Ở chỗ họ không có những chuyện xấu xa của xã hội hiện đại như cưỡng dâm, ghen tuông, mại dâm v.v... Người Esklmos ở Bắc Cực theo chế độ quần hôn, mỗi toán quần hôn có vài đôi hoặc trên chục đôi vợ chồng tuổi tác suýt soát nhau, đàn ông được gọi là "bạn chung vợ". Trên thực tế là như vậy, một người vợ có thể giao hợp với bất kỳ người đàn ông nào trong toán quần hôn. Do đó các con cái của các gia đình thuộc cùng một toán quần hôn không được phép lấy nhau vì chúng có thể có chung một bố. Do quan hệ hôn nhân như vậy nên người Eskimos không có quan niệm tư hữu đối với vợ. Họ có thể dùng vợ làm lễ vật tặng bạn hoặc khách đến chơi để tỏ lòng mến khách. Thổ dân trên quần đảo Marshalls đã từng theo chế độ một vợ nhiều chồng. Đàn ông trên đảo dư thừa, tỷ lệ nam nữ vào khoảng l,2:l. Một phụ nữ cần kiếm 3-4 chồng khiến cho khoảng 80% đàn ông trên đảo không thể sống cảnh một vợ một chồng. Trong xã hội đó, nữ đi tìm người tình không những không bị cấm đoán mà còn được khuyến khích. Nhìn theo góc độ vi mô, hành vi tình dục của loài người còn bị tập đoàn nhỏ chế ước. Ví dụ, trong hai bộ lạc ở gần nhau có thể tồn tại hai mô thức tình dục hoàn toàn khác nhau. Một bộ lạc khuyến khích nữ giới mất trinh, coi cô gái nào chưa mất trinh trước khi kết hôn là con người xúi quẩy, đàn ông không dám lấy họ làm vợ. Một bộ lạc khác lại hết sức coi trọng chữ trinh của phụ nữ, khi con gái lấy chồng họ còn làm một cuộc kiểm tra công khai, do một vị chức sắc chọn ngón tay cho vào âm đạo, nếu không thấy dấu vết của trinh tiết là sẽ ném đá vào người cô gái cho đến chết mới thôi. Đạo Mormorism ở Mỹ có thể coi là một điển hình thối nát xấu xa nhất về việc dùng quy phạm của tập đoàn nhỏ quyết định hành vi tình dục. Đạo này cho rằng Thượng đế ưu ái đàn ông bằng chế độ một chồng nhiều vợ. Đàn ông sinh hoạt tình dục một vợ một chồng sẽ nhanh chóng bị suy kiệt, còn đàn ông sinh hoạt tình dục một chồng nhiều vợ vẫn tràn trề sinh lực. Dưới tác động của thứ đạo lý đó, các tín đồ đều hăm hở quan hệ tình dục theo kiểu một nam nhiều nữ. Chủ giáo của đạo Mormorism là ông J. D. Li đã lấy 19 vợ, trong đó có hai người là chị em ruột và hai người khác là mẹ con. Chuyện này nghe có vẻ hoang đường nhưng các tính đồ đạo đó đã làm như vậy. Theo ghi chép, ở thành phố Salt Lake trung tâm của đạo Mormorism, có 3 tín đồ lấy nhiều vợ, trong số đó có người là hai chị em ruột, có người là hai mẹ con và lại còn sinh con nữa mới ghê chứ. Ba nhân tố tình dục có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau, không thể thiếu một, không thể bỏ qua cái nào, nhưng cái có tác dụng quyết định là nhân tố xã hội. Đó là vì sinh hoạt của con người về bản chất là có tính xã hội. Sự phát triển bình thường của nhân tố sinh lý tình dục tất nhiên do di truyền chủng tộc quyết định. Nhưng di truyền lại có quan hệ cực lớn với trình độ phát triển vật chất của xã hội. Còn nhân tố tâm lý tình dục lại chịu ảnh hưởng rất lớn của nhân tố xã hội, tách rời hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của xã hội thì không thể có sự phát sinh và phát triển của tâm lý tình dục