PHẦN THỨ NHẤT: THUNG LŨNG
Chương 2

Văn phòng Mỹ của những xí nghiệp Harter chiếm sáu tầng trong dãy nhà hiện đại trên đại lộ Công viên. Nếu những dãy cửa hàng bách hoá Anh Emma Harter đã thành lập nhiều năm trước đây là biểu tượng rõ rệt sự thành công của bà, thì xí nghiệp Harter là trái tim và đường gân. Một tổ chức bạch tuộc khổng lồ với những cái vòi vươn ra một nửa thế giới, nó kiểm soát các nhà máy quần áo, nhà máy len, bất động sản, một công ty hàng hoá bán lẻ và báo chí ở Anh quốc, cộng với những cổ phần khổng lồ ở những công ty lớn khác của Anh.
Là người sáng lập ra cái công ty tư nhân này, Emma vần còn có một trăm phần trăm cổ phần của những xí nghiệp Harter, và nó chỉ hoạt động dưới sự bảo hộ của bà cũng như những dãy cửa hàng bách hoá mang tên bà với những chi nhánh ở miền nam nước Anh, London, Paris và New York. Những cửa hàng của Harter là một công ty công cộng, buôn bán chứng khoán của London, mặc dù Emma là cổ đông chính và là chủ tịch uỷ ban. Sự kiểm soát nhiều loại của các xí nghiệp Harter ở Mỹ bao gồm bất động sản; công ty may áo phụ nữ của Đại lộ số Bảy và những đầu tư chứng khoán khác trong những ngành công nghiệp của Mỹ.
Trong khi các cửa hàng của Hactơ và các xí nghiệp trị giá hàng triệu bảng, chúng cũng chỉ đại diện một phần tài sản của bà thôi. Ngoài việc được bốn mươi phần trăm chứng khoán ở Công ty dầu Sitex của Mỹ; bà có những hối phiếu ở Úc, gồm bất động sản, mỏ, những cánh đồng than và một trong những trại cừu lớn nhất ở miền nam xứ Wales. Ở London, một công ty nhỏ nhưng giàu có gọi E.H Hợp nhất kiểm tra những vốn đầu tư riêng và bất động sản (chẳng biết ý người dịch thế nào nữa).
Lệ của Emma là một năm đi New York vài lần. Bà gắn bó với mọi lĩnh vực trong hoạt động thương trường của bà và mặc dù không phải bà hoàn toàn không tin nhưng người bà đã giao quyền hành thực hiện - bà tin ở sự lựa chọn khôn ngoan của mình - bà vẫn có sự thận trọng của dân Yorkshire trong con người bà. Bà không cho phép mình được liều lĩnh bất cứ cái gì, và bà cũng cảm thấy cần thiết phải thỉnh thoảng có mặt ở New York.
Bây giờ, khi chiếc Cadillac đưa họ từ sân bay Kenedy đỗ ở trước cửa toàn nhà chọc trời nơi cơ sở của bà đóng, những ý nghĩ của Emma lại quay trở lại với Gaye Sloan. Emma lập tức đoán ra được sự bồn chồn của Gaye trong cuộc nói chuyện bằng điện thoại đâu tiên khi bà từ London đến. Bình thường Emma đã nghĩ đây là do sự mệt mỏi sau một chuyến bay vượt Đại Tây Dương, nhưng sự bồn chồn này càng tăng lên chứ không giảm đi trong mấy ngày gần đây. Emma đã để ý thấy giọng nói của Gaye run run, cách lắp bắp nuốt chữ của chị, và ước muốn chấm dứt cuộc nói chuyện càng nhanh càng tốt. Điều này không chỉ làm Emma ngạc nhiên mà còn làm bà lo ngại, bởi vì Gaye cư xử hoàn toàn khác với bản chất của chị. Emma xét tới những khả năng, những vấn đề cá nhân có thể làm Gaye bối rối, nhưng linh tính của bà nói với bà gạt bỏ ý nghĩ đó, vì bà đã biết quá rõ Gaye. Theo trực giác, Emma biết là Gaye bị bối rối vì vấn đề công việc, một vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới bà.
Emma khẽ rùng mình khi họ xuống xe. Đó là một ngày tháng Giêng lạnh giá và mặc dù mặt tròi chiếu trên bầu trời quang, gió lại mang đếnsương giá và mưa của Đại Tây Dương. Bà nhớ lại, có một thời bà cảm thấy cái giá lạnh khắp người, đôi khi bà thấy hình như xương của bà đóng lại thành những tảng đá, y như thể sương băng đã ngấm vào toàn bộ cơ thể bà và làm hoá đá cả máu bà. Cái rét tê dại lần đầu tiên ngấm vào cơ thể bà trong thời thơ ấu từ độ ấy ít khi rời khỏi bà, ngay cả trong cái nắng của mặt trời nhiệt đới và ở trước những ngọn lửa bừng bừng bên lò sưởi trung tâm ở New York, mà bà thường thấy ngạt thở. Bà ho khi bà và Paula vội vã đi về phía toà nhà. Bà đã bị cảm lạnh trước khi họ rời đi Texas và nó vẫn còn lại ở ngực bà, làm bà thỉnh thoảng lại nổi lên một trận ho. Khi họ đi qua những cánh cửa trong toà nhà, Emma lại một lần cám ơn lò sưởi trong những văn phòng của bà. Họ đi thang máy lên tầng 30, nơi văn phòng riêng của bà đóng ở đó.
"Bà nghĩ có lẽ bà nên gặp Gaye ngay, và gặp một mình", Emma nói khi họ bước ra. "Hay là cháu tới xem những bản tổng kết tài sản của cửa hàng ở New York với Jostan, bà sẽ gặp cháu sau".
Paula gật đầu: "Vâng. Bà cứ gọi cháu nếu bà cần, bà nhé. Và cháu hy vọng mọi chuyện sẽ tốt lành".
Paula tạt sang bên trái trong khi Emma đi tiếp vào văn phòng, đi nhanh vào khu đón tiếp. Emma mỉm cười với cô tiếp đón và trao đổi với cô những lời chào hỏi thân mật khi bà đi lướt qua cánh cửa phía sau, bởi vì bà không quen với phong tục Mỹ để mở cửa phòng làm việc. Bà nghĩ như vậy là kỳ quặc và mất tập trung, không hoàn toàn biệt lập. Bà ném chiếc áo khoác vải tuýt và chiếc túi một cách cẩu thả lên ghế xôpha, nhưng tay vẫn cầm chiếc cặp, bà đi ngang qua phòng tới bàn giấy. Đó là một tấm kính dày khổng lồ kê trong ra căn phòng rộng thênh thang và lộng lẫy, đối diện với một cửa sổ bằng kính. Nó che cả một bức tường cao tới trần có thể nhìn được toàn cảnh đường chân trời thành phố. Emma luôn nghĩ đó là một bức hoạ sống của quyền lực và của cải to lớn, nhịp đập của nền công nghiệp Mỹ.
Bà thích cái văn phòng Mỹ của mình, khác với những dãy nhà hành chính của bà ở London, đầy những đồ cổ Georgia thượng hạng. Ở đây, không khí hiện đại và bóng bẩy, vì Emma có óc thẩm mỹ tinh tế, nên dù là bà thích những đồ đạc mang màu sắc của thời đại và nó sẽ không thích hợp nếu để kiến trúc mượt mà của thép và kính vĩ đại vươn thẳng lên bầu trời này. Và vì vậy, bà chỉ cần tập hợp cái đẹp nhất của kiến trúc thời hiện đại thôi. Những chiếc ghế Mies Van Der Rowe lẫn với những chiếc xôpha mảnh mai của Ý, tất cả đều được bọc da thẫm màu, mềm như lụa. Có một cái giá cao bằng thép và kính đầy sách vở, cái tủ ngăn bằng gỗ hồng tâm nhẵn bóng và những chiếc bàn nhỏ làm bằng những phiến đá của Ý kê trên giá Crown nhẵn bóng. Tuy vậy, mặc dù tất cả những hương vị hiện đại của nó, không có cái gì là nghiêm khắc lạnh lùng. Nó vẫn có một vẻ đẹp thanh tao cổ điển và là hoá thân của một phong vị cao cấp. Thực tế, nó có một vẻ đẹp bình thản, dịu dàng, pha trộn một cách huyền bí màu xanh lơ và xanh lá cây. Màu sắc dìu dịu này toả lan khắp mặt tường và sàn nhà, đây đó được làm rực rỡ thêm bằng những màu lộng lẫy của gối xôpha và những bức hoạ vô giá của chủ nghĩa Ấn tượng Pháp, làm cho căn phòng thêm duyên dáng. Lòng yêu thích nghệ thuật của Emma cũng được thể hiện trong điêu khắc của Henry Moore và Brancossi, đầu cung điện Angkor Vat được đặt trên những chiếc đôn bằng đá đen chung quanh phòng. Cửa sổ lớn được chắn bằng rèm màu xanh xám buông xuống từ trên trần và khi cửa mở ra, như lúc này, căn phòng dường như là một phần của bầu trời, y như nó được treo trong không gian những tấm đá nguyên khối của Manhattan.
Emma mỉm cười khi bà ngồi xuống bàn, vì bàn tay của Gaye rõ rệt. Tấm kính dài gọn ghẽ và không bừa bộn, dùng theo cách bà thích, không có gì ngoài điện thoại, ống đựng bút bằng bạc, tập giấy màu vàng để ghi chép, chiếc đèn chụp toả ánh sáng ra khắp bàn. Thư tín, bản sao, và một số lượng lớn telex được xếp thành ô thứ tự, những lời nhắn qua điện thoại được cặp lại để bên telephone. Bà bấm chuông gọi Gaye. Ngay phút chị bước vào phòng, Emma biết rằng nỗi lo sợ của bà không phải là không có căn cứ. Gaye hốc hác, những quầng thâm ở dưới mắt và người chị hình như rung lên vì căng thẳng. Gaye Sloan là một phụ nữ khoảng ba tám tuổi; chị là thư ký hành chính của Emma được sáu năm mặc dù chị đã làm việc cho bà tất cả là mười hai năm. Chị là kiểu mẫu của sự cần cù, hữu hiệu và rất tận tuỵ với Emma, người mà chị không chỉ kính phục mà còn rất yêu mến nữa. Một phụ nữ vóc cao, cân đối với vẻ ngoài hấp dẫn, lúc nào chị cũng bình tĩnh, thường là làm chủ được mình.
Nhưng khi chị đi qua phòng, Emma đã có thể thấy được sự căng thẳng cố nén. Họ trao đổi những câu nói đùa và Gaye ngồi trong ghế đối diện với bàn của Emma, tập giấy trong tay.
Emma ngồi lại trong ghế, tạo một thái độ thư thái, cố gắng làm cho Gaye cảm thấy thoải mái. Bà nhìn cô thư ký của bà một cách nhân hậu và hỏi khẽ khàng: "Có chuyện gì thế, Gaye?". Gaye do dự một lúc rồi nói khá vội vã, làm bộ ngạc nhiên: "Dạ, thưa bà Hactơ, có gì đâu. Dạ thật đó. Do ảnh hưởng của máy bay, tôi nghĩ thế".
- Thôi quên cái chuyện mệt máy bay đi, Gaye. Tôi chắc chị hết sức xúc động kể từ khi chị đến New York. Nào cô gái thân yêu, cho tôi biết có chuyện gì thế? Có chuyện gì ở đây, hay có vấn đề gì về kinh doanh ở London?
- Không ạ, tất nhiên là không có gì! - Gaye thốt lên, nhưng chị tái mặt và nhìn đi chỗ khác, tránh cái nhìn chăm chú của Emma.
Emma nghiêng người về phía trước, cánh tay bà để trên bàn, đôi mắt bà sáng lóng lánh sau cặp kính. Bà nhận thức được ngày một rõ hơn tình cảm cố nén của cô thư ký và cảm thấy là Gaye bị rối loạn vì một điều gì đó hết sức nghiêm trọng. Khi bà tiếp tục quan sát chị, bà nghĩ là Gaye sắp sửa sụp đổ đến nơi...
- Gaye, chị ốm đấy à?
- Dạ không, thưa bà Hactơ. Tôi hoàn toàn khoẻ, cám ơn bà.
- Có chuyện gì trong cuộc sống riêng làm chị băn khoăn? - Emma hỏi một cách hết sức kiên nhẫn, quyết định đi tới cùng.
- Không, thưa bà Hactơ.
Tiếng nói của chị trở thành tiếng thì thào. Emma bỏ kính nhìn Gaye lâu và soi mói:
- Thôi nào, thôi nào cưng! Tôi hiểu chị quá rõ. Có một cái gì đang đè nặng tâm trí chị và tôi không hiểu tại sao chị lại không nói với tôi về điều đó. Có phải chị đã phạm một sai lầm gì và sợ không dám giải thích không? Tất nhiên là không sau bao nhiêu năm trời làm việc như thế. Không ai là không có khuyết tật và tôi không phải là con ngoáo ộp như người ta nghĩ. Hơn ai hết tới lúc này chị phải biết rõ điều đó chứ!
- Ồ, tôi hiểu, thưa bà Hactơ... - Giọng cô run run và sắp muốn bật khóc.
Người đàn bà ngồi trước mặt Gaye điềm tĩnh và hoàn toàn tự chủ. Bà không phải là người yếu đuối. Gaye biết điều đó quá rõ. Bà là người kiên cường không hề nao núng, một người đàn bà không thể nào khuất phục nổi, người đã đạt được thắng lợi phi thường vì tính cách ghê gớm và sức mạnh ý chí của bà cộng với tài tháo vát và cái sắc sảo trong thương trường. Đối với Gaye, Emma Hactơ là không gì có thể phá huỷ nổi như chất thép lạnh nhất không thể uốn cong hoặc bẻ gãy. Nhưng mình sắp sửa bẻ gãy bà bây giờ, chị nghĩ, và cơn hoảng loạn lại xâm chiếm.
Emma với sự bất ổn lớn dần, đã nhìn thấy bắp thịt, rần rật và sự sợ hãi trong con mắt cô. Bà đứng lên một cách quả quyết, đi qua phòng, tới quầy rượu bằng gỗ hồng tâm, lắc đầu bối rối. Bà mở quầy, rót một chút cognac vào một ly nhỏ đem lại cho Gaye.
- Uống đi, cháu. Nó sẽ làm cho cháu thấy dễ chịu hơn - bà nói, và vỗ vỗ cánh tay người đàn bà một cách trìu mến.
Nước mắt dâng lên và cổ họng Gaye đau nhói. Rượu mạnh nó làm khé cổ chị, nhưng đột nhiên chị thấy vui vì cái vị mạnh của nó. Chị uống chầm chậm và nhớ lại lòng tốt của Emma đối với chị từ nhiều năm nay. Lúc này chị ao ước, hết sức ao ước, mình không phải là người đầu tiên đưa tin này. Gaye nhận thấy có những người đã đối phó với Emma như một địch thủ khủng khiếp, những người coi bà là con người cay độc, tham lam, quỷ quyệt và tàn bạo. Trái lại, Gaye biết bà là người hào phóng về thời gian và tiền bạc và là một trái tim thông cảm. Có lẽ Emma quả là ngang tàng, oai vệ và đầy uy quyền, nhưng rõ ràng là cuộc đời đã làm bà phải như vậy. Gaye đã từng nói với những người phê bình Emma với tất cả lòng chân thực của chị rằng vượt lên trên tất cả các trùm tư sản tầm cỡ của bà, Emma Hactơ có tình thương, công bằng, nhân ái và hết sức tử tế.
Gay cuối cùng đã nhận ra sự yên lặng kéo dài giữa hai người, cái nhìn chăm chú của Emma. Chị để chiếc ly xuống cạnh bàn và mỉm cười với Emma một cách yếu ớt:
- Cám ơn bà Hactơ. Tôi thấy dễ chịu hơn.
- Tốt. Nào Gaye, tại sao chị không tâm sự với tôi? Không thể nào lại khủng khiếp như vậy.
Gaye thẫn thờ, không sao nói nổi.
Emma xoay người trên ghế, nghiêng mình về phía trước thôi thúc: "Nào, có phải chuyện liên quan đến tôi không, Gaye?"
Giọng nói của bà bình tĩnh và mạnh mẽ. Hình như nó đã cho Gaye chút tin tưởng nào đó. Chị gật đầu và sắp sửa nói, nhưng khi chị thấy cái nhìn quan tâm trong con mắt của Emma, thì chị lại mất can đảm. Chị đưa tay lên bưng mặt và bất giác kêu lên:
- Trời ơi! Làm sao tôi có thể nói được với bà!
- Cứ nói thẳng ra, Gaye. Nếu cháu không biết bắt đầu từ đâu, thì hãy bắt đầu từ giữa. Cứ nói buột ra ngay. Thường thường đó là cách tốt nhất để nói đến một cái gì đó không vui, bác nghĩ là thế.
Gaye gật đầu và bắt đầu một cách do dự, cố nén nước mắt, tay chị giật giật, đôi mắt trừng trừng mở to. Chị nói nhanh từng chặp, muốn nói hết ngay một lúc, nhanh chừng nào tốt chừng ấy. Nó sẽ là một sự thảnh thơi, vì nó đã gặm nhấm trí óc chị trong nhiều ngày.
- Đó là cánh cửa... cháu nhớ... cháu quay lại... Cháu nghe thấy họ nói... không, hét... họ tức giận... tranh cãi... họ nói là...
- Khoan đã, Gaye - Emma giơ tay để ngăn những lời rời rạc - Bác không muốn ngắt lời cháu, nhưng cháu có thể nói rõ ràng hơn một chút được không. Bác biết cháu đang xúc động, nhưng cháu nên chậm lại và bình tĩnh. Cửa nào?
- Xin lỗi - Gay hít một hơi dài - Cửa phòng hồ sơ mở ra phòng ban giám đốc ở London. Cháu đã quên không khoá nó tối thứ sáu trước. Cháu rời cơ quan và cháu nhớ đến cái cửa. Cháu quay lại văn phòng của cháu, bởi vì đến tối thứ bảy cháu sẽ đi New York. Cháu mở cửa bên, đi qua phòng hồ sơ để khoá cửa ở đầu kia.
Trong khi Gaye nói, Emma đã hình dung ra căn phòng hồ sơ trong dãy nhà hành chính ở cửa hàng London. Đó là một căn phòng hẹp với những tủ ngăn hồ sơ kê ở hai bên cao ngút đến tận trần. Một năm trước, Emma đã mở thêm một cánh cửa thông phòng hồ sơ với phòng ban giám đốc. Nó đã giúp để lấy được tài liệu có thể cần tới trong các cuộc họp của ban giám đốc, nó cũng trở thành một đường giao thông nhỏ có ích nối phòng ban giám đốc với các phòng hành chính và như vậy là đỡ được rất nhiều thời gian.
Biết bao nhiêu là câu hỏi qua đầu của Emma, nhưng bà để lùi nó lại sau. Bà gật đầu để cô thư ký của bà tiếp tục.
- Cháu biết bà quan tâm đến cái khoá cửa đó. Khi cháu đi từ văn phòng của cháu qua phòng hồ sơ, cháu nhận thấy cánh cửa không phải chỉ đã mở khoá mà còn mở he hé nữa. Đó là lúc cháu nghe thấy họ... qua khe cửa. Cháu không biết phải làm thế nào. Cháu không muốn ai nghĩ là cháu đang nghe trộm. Vì vậy cháu dừng lại một lát, rồi cháu tắt đèn để họ không biết cháu đang ở trong phòng hồ sơ. Thưa bà Hactơ, cháu... - Gaye ngừng lại và nuốt nước bọt, trong một lát cô không thể tiếp tục nổi.
- Nói tiếp đi, Gaye, không sao đâu.
- Cháu không nghe trộm, quả thật không, thưa bà Hactơ. Bà biết cháu không phải là người như thế. Hoàn cảnh là tình cờ... mà cháu nghe được họ, cháu muốn nói như thế... Cháu đã nghe thấy họ nói... nói...
Gaye lại ngừng, run cả người. Chị nhìn Emma, bà đang ngồi cứng người trên ghế, mặt bà không thể nào đọc hết được.
- Cháu nghe họ nói, không, một người trong bọn họ nói là bác đã quá già, không thể điều hành nổi công việc nữa. Thật khó có thể chứng minh được là bác đã suy yếu vì tuổi già hoặc không còn đủ khả năng, nhưng chắc bác sẽ đồng ý rút lui để tránh bê bối, tránh tai hoạ với những cổ đông Hactơ của Sở Giao dich chứng khoán. Họ tranh luận vì điều này. Thế rồi ông ta, có nghĩa là cái người đã nói hầu hết cả buổi, nói là các cửa hàng phải bán cho hết và như vậy sẽ dễ dàng bởi vì vài ba công ty sẽ quan tâm tới một sự thay thế. Sau đó ông ta nói các xí nghiệp Hactơ có thể đem bán thành từng phần nhỏ...
Gaye do dự nhìn kỹ Emma để xem phản ứng của bà. Nhưng nét mặt Emma vẫn không sao có thể dò được.
Mặt trời ló ra từ sau những đám mây màu xám và ùa vào trong phòng, một dòng thác ánh sáng rực rỡ, chói chang, bạo tàn tràn ngập căn phòng mênh mông mang một màu trắng làm cho căn phòng trông xa lạ, không thật và khủng khiếp đối với Emma. Bà chớp mắt và đưa tay che.
- Cháu làm ơn đóng cái rèm kia lại, Gaye - Bà lẩm bẩm, giọng của bà chỉ còn là một tiếng thì thầm khàn khàn.
Gaye chạy bay qua phòng và ấn nút tự động điều khiển rèm cửa. Chúng lướt qua chiếc cửa sổ cao vút với một tiếng "xuỳ" khe khẽ và cái ánh sáng xuyên qua đã bị tản đi nhẹ nhàng. Chị quay trở lại ghế của mình trước bàn giấy và đăm đăm nhìn Emma, hỏi một cách quan tâm:
- Thưa bác Hactơ, bác không sao chứ ạ?
Emma đang ngó trân trân vào giấy tờ trên bàn. bà ngẩng đầu lên chầm chậm và nhìn Gaye với đôi mắt trống rỗng:
- Ừ. Xin cứ nói tiếp. Tôi muốn biết tất cả. Và tôi hoàn toàn chắc là còn nữa.
- Vâng, còn nữa. Người kia nói đấu tranh với bác bây giờ là vô ích, hoặc cá nhân hoặc theo pháp luậ, bác chẳng còn sống được bao lâu nữa, bác đã già, rất già, gần tám mươi rồi. Và người kia nói bác còn cương cường lắm, cuối cùng họ sẽ phải bắn bác. - Gaye lấy tay bưng miệng để cố nén một tiếng nấc và nước mắt ròng ròng - Ôi, bà Hactơ, cháu xin lỗi...
Emma im phăng phắc như hoá đá. Đôi mắt bà đột nhiên lạnh và tính toán:
- Cháu làm ơn nói cho tôi biết hai quý ông đó là ai, Gaye? Cháu nhớ là tôi dùng cái từ đó một cách mơ hồ. - Bà nói với một sự mỉa mai cay đắng.
Trước khi Gaye có dịp để trả lời, tự trong đáy lòng mình, tự trong xương tuỷ mình, Emma đã biết những người mà Gaye sẽ kết tội trước khi chị mở miệng nói. Nhưng một phần trong con người bà vẫn còn không tin, vẫn còn hy vọng và bà phải nghe từ chính miệng Gaye để thực sự tin. Để chấp nhận những ngờ vực đáng nguyền rủa của mình là thực tế.
- Trời ơi, bà Harter! Giá như cháu không phải nói với bác điều này! - Cô hít một hơi dài - Đó là ông Elsley và ông Lother. Họ lại bắt đầu bàn nhau. Ông Lother nói họ cần các cô cùng với họ. Ông Elsley nói rằng các cô gái đã ở với họ rồi và ông đã nói chuyện với họ. Nhưng ông chưa nói với bà Amory bởi vì bà sẽ chẳng bao giờ đồng ý. Ông nói là không được nói với bà ấy điều gì hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào, bởi vì bà ấy sẽ chạy đi nói với bà ngay lập tức. Ông Lother lúc ấy nói lại là họ không thể làm gì để giành lấy công việc trong khi bà hãy còn sống. Ông ấy nói với bà Elsley là họ không thể ổn được bởi vì họ không có uy quyền, hoặc đủ cổ phần để nắm được quyền kiểm soát. Ông ấy nói là cứ phải đợi bà chết đã. Ông ấy rất kiên quyết về chuyện này. Ông ấy cũng nói với ông Elsley là chính ông ấy có quyền cổ phần của dây chuyền sản xuất Harter và ông ấy chắc chắn là bà sẽ để cho họ những cổ phần này. Sau đó ông ấy bảo với ông Elsley là ông ấy có ý định điều hành sản xuất Harter và sẽ không bao giờ đồng ý bán các cửa hiệu cho một conglomerate.
Ông Elsley tức giận, hầu như điên khùng, và bắt đầu chửi rủa ông Lother những điều khủng khiếp nhất. Nhưng ông Lother cuối cùng đã làm cho ông ta bình tĩnh trở lại, và ông ta nói rằng ông ta sẽ đồng ý với việc bán các Xí nghiệp Harter và như vậy sẽ đem cho ông Elsley số tiền triệu như ông ấy muốn. Lúc ấy ông Elsley mới hỏi ông Lother có biết những gì trong chúc thư của bà không. Ông Lother nói là ông ấy không biết, nhưng nói là bà sẽ công bằng đối với tất cả bọn họ. Ông ấy cũng bày tỏ nỗi quản ngại đối với cô Paula vì cô ấy gần gũi với bà. Ông ấy nói ông ấy không biết là cô ấy đã moi được gì của bà. Điều này làm cho ông Elsley bồn chồn và ông lại trở nên rất kích động, một chương trình mà họ sẽ thực hiện sau khi bà chết, trong trường hợp di chúc của bà không thuận lợi gì cho họ.
Gaye ngừng lời như ngạt thở, ngồi sững trên ghế. Emma không thể nói được, chuyển động được hoặc suy nghĩ được gì. Lúc này bà sững sờ và rung động toàn thân khi bà suy nghĩ lại những lời Gaye nói, máu dồn lên đầu và bà xỉu đi luôn. Mỗi cái xương trong cơ thể bà đè xuống với cơn mệt khủng khiếp nhất, cơn mệt nặng trĩu và choáng váng.
Trái tim bà xê dịch trong con người, và Emma thấy như ngay giây phút này đây, nó héo đi và biến thành hòn đá cuội nhỏ lạnh và cứng. Một cơn đau mênh mang ngập tràn thân thể bà. Đó là cơn đau của thất vọng. Cơn đau của sự bị phản bội. Hai đứa con trai của bà đang âm mưu chống lại bà. Robin và Kid là hai đứa anh em trai cùng mẹ khác cha chưa bao giờ ưa nhau, nay lại gần gũi ăn cánh với nhau trong phản phúc. Bà hoài nghi khi bà nghĩ: Trời đất ơi! Không thể như thế được! Không phải Kid. Không phải Robin. Chúng nó không bao giời có thể dễ mua chuộc như vậy. Không bao giờ. Không phải các con trai của ta! Thế nhưng ở nơi nào đó sâu trong tiềm thức của bà, trong linh hồn sâu kín nhất của bà, bà biết đó là thật. Và nỗi đau đớn của con tim, linh hồn và thân thể đã được thay thế bằng nỗi căm giận hung bạo lạnh lùng đến độ làm trí óc của bà minh mẫn và đẩy bà đứng vững trên đôi chân của mình. Mơ hồ, xa xôi, bà nghe thấy tiếng nói của Gaye vọng tới bà như từ một hang sâu.
- Bà Harter! Bà Harter! Bà ốm sao?
Emma nghiêng người qua bàn, bà nắm chặt lấy nó để giữ cho vững, mặt bà méo xệch. Giọng bà thấp xuống khi nói:
- Cháu có chắc tất cả những chuyện ấy không, Gaye? Tôi không nghi ngờ gì cháu, nhưng cháu có chắc là nghe đúng tất cả những điều ấy không? Cháy hãy nhận ra tầm quan trọng của điều cháu vừa kể, tôi chắc thế, vì vậy hãy suy nghĩ cẩn thận.
- Bà Harter, cháu tuyệt đối chắc tất cả những điều cháu đã nói - Gaye trả lời một cách lặng lẽ - Vả nữa, cháu không hề thêm bớt một chút gì hết và cháu cũng không hề cường điệu.
- Tất cả chỉ có vậy sao?
- Không, còn nữa.
Gaye cúi xuống và cầm cái túi xách lên. Chị mở túi và lấy một cái băng ra, chị để nó xuống bàn, trước mặt Emma.
Emma nhìn cái băng, đôi mắt bà nheo lại. "Cái gì thế?"
- Đó là cái băng ghi lại tất cả những điều đã được nói, thưa bà Harter. Trừ những điều đã xảy ra trước khi cháu vào phòng hồ sơ. Và câu đầu tiên cháu đã nghe thấy. Chúng bị thiếu.
Emma nhìn chị không sao hiểu nổi, lông mày bà rướn lên, những câu hỏi ở đầu lưỡi của bà. Nhưng trước khi bà có thể hỏi, Gaye đã tiếp tục giải thích đầy đủ.
- Thưa bà Harter, máy ghi âm mở. Bởi vậy trước tiên cháu trở lại văn phòng. Khi cháu vào phòng hồ sơ và nghe thấy họ la hét, cháu đãng trí mất một phút. Cháu tắt đèn phòng hồ sơ để cho họ không vào và nhìn thấy cháu. Vừa lúc ấy cháu cũng nhìn thấy ánh sáng đỏ trên máy ghi âm nhấp nháy và cháu cũng tới để tắt nó đi. Nhưng đột nhiên cháu nảy ra ý kiến là ghi âm cuộc nói chuyện của họ, bởi vì cháu nhận biết được tầm quan trọng của nó. Bởi vậy cháu ấn nút thu. Tất cả mọi thứ họ nói lú ấy ở đây, ngay cả những điều được nói sau khi cháu đóng cửa và không thể nghe thấy rõ ràng.
Emma có một nỗi ao ước không thể cưỡng lại được là cất lên một tiếng cười lớn và cay đắng. Bà cố cưỡng lại sự thôi thúc đó vì sợ Gaye có thể nghĩ là bà đã phát điên và trở thành mất trí. "Lũ ngu, lũ ngu cùng cực!" bà nghĩ. Và mới thật trớ trêu làm sao! Họ đã chọn chính phòng giám đốc của bà để âm mưu chống lại bà. Đó là cái sai lầm đầu tiên và thảm hại nhất của chúng. Một sai lầm không thể sửa nổi. Kid và Robin là các giám đốc của những xí nghiệp Harter, nhưng họ không ở trong ban của cửa hàng bách hoá dây chuyền. Họ không tới những cuộc họp giám đốc ở cửa hàng, vì vậy học không biết là mới đây bà đã đặt thiết bị tiên tiến để ghi lại những chi tiết, một phương tiện khác nữa để tiết kiệm thời gian. Nó đã giải phóng cho Gaye những công việc khac và chị chỉ việc đánh máy biên bản từ cuộn băng khi nào thuận tiện. Những microphone được móc dưới bàn của giám đốc, được giấu đi vì lý do thẩm mỹ chứ không phải vì bất cứ lý do bí mật nào trong căn phòng lịch thiệp Geogia với những đồ cổ đẹp và những bức hoạ giá trị. Emma nhìn xuống cuộn băng trên bàn kính, đối với bà nó là một điều độc ác, nằm đó như một con rắn độc cuộn mình.
- Tôi chắc cháu đã nghe cái này rồi, Gaye.
- Vâng, thưa bà Harter. Cháu đợi cho đến khi họ đi và vặn lại. Cháu mang nó về nhà với cháu hôm thứ sáu và từ đó lúc nào nó cũng ở bên cháu.
- Chỉ khoảng chừng mười phút gì đó nữa... Họ bàn bạc...
Emma giơ tay lên, hoàn toàn kiệt lực, không thể nghe thêm được nữa? "Thôi không sao, Gaye. Tôi sẽ mở nghe sau. Tôi đã biết đủ rồi!"
Bà đứng lên, đi qua phòng tới bên cửa sổ, thẳng người và tự chủ, mặc dầu bước chân bà chậm và kéo lê một cách mệt mỏi qua tấm thảm dày. Bà gạt tấm rèm nhẹ nhàng. Trời đã bắt đầu rơi tuyết. Những bông tuyết pha lê lấp lánh rơi liên tiếp, quay cuồng, phất phới trong gió, tạt vào cửa sổ, phủ lên nó bằng một lớp áo mỏng, thanh tao như những dải lụa trắng. Nhưng những bông tuyết nhanh chóng tan dưới anh sáng mặt trời, chạy thành từng rãnh từ trên kính xuống và biến thành mưa bụi trưốc khi chúng tới đất. Emma nhìn xuống. Phía dưới, xe cộ chuyện động thành những dòng chầm chậm bất tận ngược xuôi Park Avenue và cảnh tượng xa xôi đến kỳ lạ. Và mọi thứ ắng lặng trọng căn phòng y như thể cả thế giới này đã dừng lại và yên lặng, đọng lại đến muôn đời?
Bà tì cái đầu đau nhức vào cửa kính, nhắm mắt nghĩ đến hai đứa con trai của bà, đến tất cả các con của bà, nhưng chủ yếu là đến Robin yêu dấu, đứa con trai cưng của bà. Robin đã trở thành đối thủ của bà sau khi họ va chạm với nhau một vài năm trước về một chuyện đặt giá nhượng cho dãy cửa hàng. Một chuyện đặt giá nhượng từ trên trời rơi xuống mà bà không mươn thảo luận, không buồn cân nhắc. Khi bà không muốn nói chuyện với conglomerate, anh đã làm om sòm kết tội bà, nói một cách giận dữ là bà không muốn bán chỉ vì bà không muốn từ bỏ quyền hành của mình. Bà đã thấy sự bực bội của anh ta bộc lộ một cách hết sức hung hăng đến nỗi lúc đầu bà không thể tin được, rồi bà thực sự tức giận. Lúc đó bà nghĩ, tại sao nó lại dám cả gan ra lệnh cho bà về công việc của bà, một công việc nó không mảy may quan tâm đến ngoại trừ số tiền đem lại cho nó. Robin, một đại biểu quốc hội đẹp trai, sắc sảo, Robin, với người vợ chịu đựng đau khổ từ lâu, những nhân tình của anh ta, những người bạn trai đáng nghi vấn và sự ưa thích sống xa hoa của anh ta. Phải, Robin chính là kẻ chủ mưu cái âm mưu nho nhỏ chết tiệt này, mà bà đã biết quá rõ.
Kid, đứa con cả của bà, không đủ trí tưởng tượng hoặc nghị lực để nghĩ được một kế hoạch hiểm ác như thế. Nhưng nếu nó thiếu trí tưởng tượng thì lại bù lại được bằng cái cần mẫn, ương ngạnh và anh ta nhẫn nại một cách đặc biệt. Kid có thể đợi hàng năm cho cái mà anh ta thực sự mong muốn, và bà thì đã biết là nó cần các cửa hàng. Nhưng nó không có một khả năng nào về bán lẻ và từ lâu, khi nó hãy còn nhỏ, bà đã dìu dát nó vào trong các xí nghiệp của Harter, lái nó tới những nhà máy len ở Yorkshire, ở đó nó điều hành cũng có được một chút hiệu quả nào đó. Phải, Kid lúc nào cũng có thể bị điều khiển và không còn nghi ngờ gì nữa, chính Robin đã làm điều này, bà nghĩ một cách khinh bỉ.
Bà nghĩ tới ba người con gái và môi bà méo đi thành một nụ cười cay độc khi bà nghĩ tới Edwina, người con gái cả, đứa sinh ra trước tiên trong mọi đứa. Bà đã làm việc như một kẻ lao dịch và chiến đấu như một con hổ cái cho Edwina khi chính bà cũng chỉ là một cô gái, bởi vì bà đã yêu Edwina hết lòng. Nhưng bà vẫn cảm thấy Edwina không bao giờ thực lòng đối với bà như bà đối với nó, hồi còn nhỏ nó đã xa lạ và sự xa lạ này đã biến thành sự lạnh lùng thật sự những năm sau. Edwina đã liên kết với Robin thời gian đặt giá chuyển nhượng, ủng hộ hắn ta một cách triệt để. Không còn nghi ngờ gì nữa, bây giờ con này là đồng minh chính của hắn ta trong cái kế hoạch phản phúc này. Bà thấy khó có thể tin được là Elisabeth, chị em sinh đôi với Robin lại có thể đi cùng với chúng nó, và có lẽ nó sẽ thế. Elisabeth đẹp, hoang dại và không gì có thể kiềm chế nổi với những đường nét tuyệt vời với nhan sắc lừa người và ý thích có những người chồng giàu sang, quần áo sang trọng, những chuyến du lịch tuyệt vời. Không một số lượng itền nào là đủ thoả mãn cô ta và cô ta cần nó một cách thường trực và tuyệt vọng như Robin.
Daisy là người con duy nhất bà tin chắc, bởi vì bà biết trong số tất cả những đứa con, chỉ có Daisy là thực sự yêu bà. Daisy không dính líu vào cái mưu kế này bởi vì cô sẽ không bao giwò là một thành viên của một vụ âm mưu do các anh chị em của cô bày ra để băm nhỏ gia sản của Harter. Ngoài tình yêu và lòng trung thành của cô, Daisy còn hết sức kính trọng bà và tin tưởng ở sự xét đoán của bà. Daisy không bao giờ đặt câu hỏi về những động cơ và quyết định của bà, bởi vì cô nhận thức được rằng chúng xuất phát từ ý định tốt, và hoàn toàn căn cứ trên sự tính toán sáng suốt.
Daisy là con út của bà, nhưng cả hình dáng lẫn tính cách đều khác Emma cũng như tất cả những người con khác, nhưng cô gắn bó mật thiết với mẹ và họ chăm sóc nhau với một tình yêu sâu sắc và mạnh mẽ kèm theo lòng thán phục. Daisy dịu dàng, hiền hậu, tố đẹp và trọng danh dự. Ngày xưa, đã có lúc Emma suy ngẫm tới sự trong trắng thực chất, sự lương thiện của Daisy và lo ngại về chuyện này, bà tin rằng cô quá cởi mở vả dịu hiền như vậy thì rất khó an toàn. Emma đã lý luận lòng tốt của cô chỉ làm cho cô dễ gặp nguy hiểm. Nhưng cuối cùng, bà đã bắt đầu hiểu ra rằng còn một sợi dây mạnh mẽ bên trong con gnười Daisy. Theo cách thức riêng của mình, cô có thể vững chắc như Emma, và không thể nào lay chuyển nổi cô trong niềm tin, can đảm, dũng cảm trong hành động, kiên trì trong lòng trung thành. Cuối cùng Emma mới nhận ra là chính lòng tốt của Daisy đã che chở cho cô. Nó bao bọc lấy cô như một lá chắn bóng loáng, không thể xâm phạm được và vì thế nó đã làm cho cô vững chắc chống lại tất cả mọi thứ.
Và những người khác cũng biết điều ấy, Emma nghĩ trong khi bà tiếp tục nhìn ra phía đường chân trời Manhattan, trái tim bà tràn ngập một nỗi thất vọng. Và vẫn còn nôn nao, tuy nhiên cái cảm giác choáng váng nhen nhúm trong đầu bà đã dần dần tan biến đi. Bà cũng nhận ra rằng mặc dầu lúc đầu bị choáng váng, phản ứng này cũng trôi qua. Bây giờ bà thực sự không cảm thấy một chút ngạc nhiên nào trước câu chuyện của Gaye. Không phải vì bà đã chờ đợi những hành động này của con cái bà, bởi vì thật sự bà không hề chờ đợi điều đó. Nhưng ít cái có thể làm cho bà ngạc nhiên được nữa và với sự từng trải và kinh nghiệm đời, sự phản phúc trong gia đình chẳng hề làm bà ngạc nhiên chút nào.
Từ lâu, Emma đã đi đến chỗ tin là những sợi dây máu mủ không bảo đảm sự trung thành và tình yêu. Nói một giọt máu đào hơn ao nước lã là không đúng, bà nghĩ, trừ trường hợp của Daisy. Nó thực sự là một phần của ta. Bà nhớ lại một cuộc nói chuyện trước đây với chủ ngân hàng của bà, Henry Rositer. Câu chuyện từ nhiều năm trước, nhưng nó trở lại với bà mồn một, từng điểm rõ ràng y như mới chỉ đâu như ngày hôm qua. Ông đã nói một cách cay độc rằng Daisy như một con bồ câu được tung vào ổ rắn độc. Emma đã rùng mình lùi lại trước sự so sánh man rợ này của ông ta. Để xua đuổi cái hình ảnh ghê tởm mà ông đã dựng lên trước mắt bà, bà đã cười để ông không trông thấy được phản ứng thật của bà là thế nào. Hôm nay vào một ngày tháng giêng này, ở tuổi bảy mươi chín, bà nhớ lại những lời của Henry đã báo điềm gở khi bà nghĩ tới bốn đứa con đầu tiên bà đã sinh ra, nuôi nấng, chúng đã phản lại bà. Đúng là một ổ rắn độc, bà nghĩ.
Bà đột ngột rời khỏi cửa sổ và quay trở lại bàn làm việc. Bà ngồi xuống và đôi mắt không chớp dừng lại ở cuộn băng đê tiện một lát rồi bà để chiếc cặp giấy lên bàn, mở ra, bỏ cuộn băng vào không bình luận gì thêm.
Gaye nhìn một cách lo âu, mặt chị nghiêm trang. Chị bị bối rối vì nét mặt của Emma. Bề ngoài của bà bây giờ được tráng bằng một vẻ dữ tợn rắn chắc, trông bà hốc hác. Xướng trên má bà vốn cao lên rõ ràng, căng ra dưới làn da, thì bây giờ hầu như không còn thịt nữa. Nét mặt vốn xanh xao của bà bây giờ xám tro. Những chấm đỏ lộ ra như những vết bẩn trên đôi má bà và đôi môi bà trở nên xám ngoét dưới lớp son đỏ. Đôi mắt to màu xanh của Emma vốn trong sáng và hiểu biết giờ đây bị che phủ với một nỗi đau đen tối, một sự vỡ mộng và hấp hối của sự phản bội đã được biết một cách đầy đủ. Đối với Gaye, khuôn mặt bà mang âm bộc của mặt nạ tử thần.
Có một cái gì mong manh, dễ bị làm tổn hại trong con người Emma lúc này, trông bà già nua quá đến nỗi Gaye có niềm ao ước chạy lại, vòng tay quanh người bà. Nhưng chị kìm mình, vì sợ Emma sẽ nghĩ đó là một sự xâm phạm, vì chị biết sự tự chủ thường xuyên, niềm kiêu hãnh khôn cùng vốn là bản chất của Emma và bà có ý muốn giữ cho mình những công việc riêng tư của mình. Chị hỏi khe khẽ xen chút dịu dàng:
- Bà thấy trong người khó ở ra sao, thưa bà Harter? Bà có cần cháu lấy gì không?
- Tôi sẽ bình thường trong vài ba phút nữa, Gaye - Emma cố nở một nụ cười. Bà cúi đầu và cảm thấy những giọt nước đọng dưới mắt mình. Cuối cùng bà nhìn lên, nói:
- Tôi muốn ngồi một mình một lát, Gaye. Để suy nghĩ. Chị làm ơn pha cho tôi một tách trà và mang lại cho, chừng mười phút nữa, được không?
- Dạ, tất nhiên, thưa bà Harter. Chừng nào bà chắc là bà có thể ngồi một mình được.
Chị đứng lên, đi về phía cửa, ngập ngừng một lát. Emma mỉm cười: "Vâng, tôi ngồi một mình được, Gaye ạ. Đừng lo". Gaye rời khỏi phòng, Emma ngả người ra ghế, nhắm mắt, để cho những cơ bắp cứng nhắc của mình thư giãn. Trước tiên là Sitex rồi lại đến cái này, bà suy nghĩ một cách mệt mỏi, rồi lại đến Paula và mối quan tâm của bà đối với Jim Feli. "Quá khứ lúc nào cũng quay trở về ám ảnh ta", bà buồn bã nghĩ, mặc dù tận trong lòng mình bà biết không ai trốn khỏi được quá khứ. Đó là gánh nặng của hiện tại và tương lai và mình luôn phải mang nó.
Nhiều năm trước đây khi Emma còn là một phụ nữ trẻ, bà đã nhìn thấy một vài nét phát triển trong những đứa con của bà làm cho bà kinh hoàng, bà nghĩ: Đó là lỗi của ta. Ta đã tạo nên chúng như thế. Một số đứa thì ta lơ là, một số đứa lại quá yêu thương, tất cả ta đều buông lỏng và làm hư chúng. Nhưng khi bà lớn tuổi hơn và khôn ngoan hơn, thì tội lỗi của bà loãng đi khi bà tin rằng mỗi người đều chịu trách nhiệm cho tính cách của riêng mình. Cuối cùng bà đã có thể thừa nhận với chính mình rằng nếu tính cách quyết định số phận một con người vậy thì mỗi một người đàn ông, mỗi một người đàn bà đều tạo ra thiên đường hay địa ngục của chính mình. Lúc này bà mới thực sự hiểu Paul Margin khi đã một lần ông nói với bà: "Mỗi chúng ta đều là tác giả của cuộc đời chúng ta, Emma ạ. Chúng ta sống trong chính cái chúng ta đã tạo ra. Không có cách gì đổ lỗi và không có ai nhận trách nhiệm". Từ giây phút ấy, bà đã có thể giải quyết những xúc động pha tạp hỗn loạn của mình về các con bà. Bà đã kìm mình để không quá đau khổ đối với chúng, bà đã thôi không tự trách mình trước những yếu đuối và lỗi lầm của chúng nữa. Chính chúng phải chịu trách nhiệm về những điều chúng đã làm đối với chúng, bà đã có thể rũ bỏ cái cảm giác là bà đáng trách.
Tất cả những điều ấy bây giờ lại trở lại với bà khi bà nhớ tới những lời của Paul và bà nghĩ: Không, ta không có tội. Chúng xuất phát từ sự tham lam của chúng, từ những tham vọng ghê gớm và không đúng chỗ của chúng. Bà lại đứng lên và bước tới cửa sổ, bước chân của bà đã vững chắc thêm lên, nét mặt bà cả quyết. Bà nhìn ra ngoài một cách lơ đãng. Tuyết đã thôi rơi và mặt trời đang chiếu trên bầu trời quang đãng. Sau một vài suy nghĩ, bà quay trở lại bàn giấy. Bà biết bà phải hành động như thế nào. Bà bấm chuông gọi Gaye; chị đáp lại ngay tức thì, mang một khay trà vào phòng. Chị đặt nó lên trên bàn, trước mặt Emma, bà cảm ơn chị và chị tới ngồi ở một chiếc ghế đối diện bàn giấy. Bà ấy thật là bất khuất, Gaye tự nhủ khi chị nhìn Emma, chú ý tới vẻ bình tĩnh trong mắt bà, tay cầm bình chè rót nước.
Một lát sau, Emma mỉm cười với chị: "Tôi thấy khá hơn rồi, Gaye ạ. Tôi nghĩ cháu nên đặt trước ba chỗ trên bất cứ một chiếc máy bay nào đi London tối nay. Tôi biết nhiều hãng hàng không có những chuyến bay sớm vào buổi tối. Không kể là chuyến bay nào, cho chúng tôi lên máy bay".
- Vâng, thưa bà Harter, cháu sẽ đi ngay - Chị đứng lên để đi.
- À này, Gaye thân mến, tôi chắc là Paula sẽ hỏi tại sao chúng ta lại quay trở lại London sớm hơn là điều mong đợi. Tôi sẽ nói với nó là có công việc khẩn cấp cần tới sự chú ý của tôi. Tôi không muốn nó không hay biết gì về cái này - Bà ngừng lại để tìm một từ thích hợp và cười cay đắng - về cái âm mưu này, tôi nghĩ chúng ta nên gọi nó như vậy.
- Cháu không bao giờ nghĩ là lại đi nói điều đó với cô Paula hay bất cứ ai! - Gaye kêu lên hăm hở.
- Và Gaye này...
- Dạ thưa bà Harter?
- Cám ơn cháu. Cháu đã làm điều đúng. Tôi rất cảm ơn cháu.
- Ôi, bà Harter, xin bà... cháu còn có thể làm được điều gì khác nữa? Cháu chỉ sợ không dám nói với bà bởi vì cháu biết điều ấy làm bà đau phiền đến thế nào.
Emma mỉm cười: "Tôi biết. Bây giờ cháu xem có thể kiếm vé máy bay cho chúng ta không?"
Gaye gật đầu và đi. Emma uống trà, đầu óc bà đầy ý nghĩ. Ý nghĩ về công việc, về các con, các cháu bà.
Gia đình bà đã gây dựng, cả một triều đại bà đã lập ra. Bà biết cần phải làm gì để giữ gìn tất cả. Nhưng bà có thể làm được điều đó không? Trái tim bà rung lên khi bà mường tượng những ngày phía trước. Nhưng bà biết bà sẽ tìm được sức mạnh. Bà thấy cuộc đời thật khôi hài. Những đứa con trai của bà đã phạm một sai lầm không sao sửa chữa được là âm mưu ngay trong phòng giám đốc của bà. Rõ ràng là chúng đã chọn cái mà chúng nghĩ là thời gian tốt lành, buổi chiều thứ sáu, khi mọi người đã đi hết. Dù vậy, bà kinh ngạc trước sự ngu ngốc hoàn toàn của chúng. Còn một điều sơ suất nữa trong âm mưu của chúng và đó là một sơ suất thảm hại. Chúng đã đánh giá thấp bà. Và cuối cùng, số mệnh xui khiến, bà đã được báo trước về sự phản phúc của chúng. Giờ đây bà đã được chuẩn bị, bà có thể xử lý tình huống một cách có hiệu quả, đón trước những bước đi của chúng và chặn chúng lại. Bà mỉm cười với mình một cách cay đắng. Bà luôn luôn làm một người chơi bạc trong công việc của bà, trong cuộc sống nói chung. Vận may của bà vẫn còn. Bà cầu nguyện cho nó còn mãi.