PHẦN THỨ NHẤT: THUNG LŨNG
Chương 4

Emma sống. Mọi người đều nói đó là một điều thần kỳ. Một người đàn bà 78 tuổi có thể sống được qua cơn bệnh sưng phổi và những biến chứng phức tạp tiếp theo của nó lần này. Họ cũng biểu lộ sự kinh ngạc trước khả năng phục hồi sức khỏe không thể tưởng tượng nổi của bà đã khiến bà có thể rời bệnh viện London sau 3 tuần. Emma, khi nghe những lời bình luận này, không nói gì hết, bà chỉ mỉm cười một cách bí hiểm và nghĩ thầm: A, thế nhưng họ không nhận ra rằng ý chí sống là sức mạnh lớn nhất trên đời này.
Sau 2 ngày nghỉ ngơi tại ngôi nhà của bà ở Belgravia, bà nóng lòng rời khỏi giường và bất chấp lời khuyên của bác sĩ, bà xuống cửa hàng. Đây không phải là một hành động thách thức ngu xuẩn như ngó bộ ở phía ngoài, bởi vì mặc dù bà có thể theo kinh nghiệm nhưng không phải là liều lĩnh, và bà cũng biết rõ cơ thể của mình. Bây giờ bà tự biết mình đã hoàn toàn bình phục. Bà được những người làm công tiếp đón nồng nhiệt, hầu hết đều yêu quý bà. Họ coi việc bà trở lại đột ngột là điều chắc chắn. Paula hồi hộp lăng xăng xung quanh bà, nâng giấc, lo lắng và quan tâm.
"Bà mong cháu đừng rối rít lên, cháu cưng của bà", Emma nói khi Paula đi theo bà vào văn phòng. Cô lẩm bẩm nói gì đó về chuyện nguy hiểm cho sức khoẻ của bà. Emma cởi chiếc áo khoác lông bằng vải tuyt và đứng sưởi ấm đôi tay trước lò sưởi một lúc, rồi bước qua phòng, dáng đi xăm xắn theo thường lệ, bước đi nhún nhảy, tư thế hoàn toàn đường bệ.
Con sóng đen choáng váng và thất vọng đã nhấn chìm bà sau khi Gaye tiết lộ chuyện mưu mô của lũ con bà đã lắng xuống, mặc dù chậm chạp và đau đớn, nhưng chúng đã hết hy vọng. Tội lỗi đốn mạt chó thể rút từ cuộc trò chuyện đáng nguyền rủa trên cuốn băng và sự chấp nhận cái phản phúc của chúng chỉ tôi luyện thêm trí óc của bà. Bà nhìn sự vật với tính khách quan lạnh lùng và sáng láng, đúng như nó vốn có, không bị những xúc động không cần thiết bao phủ. Trong lúc ốm đau, bà đã vận dụng ý chí sắt thép của mình, chiến đấu ngoan cường để sống. Bà đã biết hoà hợp với mình. Và một nỗi bình yên to lớn một hôm đã ùa vào con người bà như một luồng ánh sáng ấm áp, nó đem lại cho bà niềm an ủi và làm sống lại sức mạnh bên trong của bà. Hình như sự đụng chạm với cái chết đã làm bà mạnh mẽ tinh thần và lòng dũng cảm không gì có thể bẻ gãy được của bà. Sức lực của bà đã quay trở lại, tiếp theo là một sự bình yên, trầm tĩnh bao quanh lấy bà như một vỏ bọc.
Bà ngồi vào vị trí của mình sau chiếc bàn lớn Georgia khảm lại, trở về với cương vị người chỉ huy. Bà mỉm cười với Paula: "Bà hoàn toàn bình phục rồi, cháu ạ", bà nói một cách rạng rỡ và chắc chắn. Và trông bà quả là như vậy, mặc dầu một phần là do cái ảo tưởng bà đã khéo léo tạo nên sáng hôm đó. Nhận thấy ánh xanh xao và những nét mệt mỏi quanh mắt và khoé miệng trong khi mặc quần áo, bà đã tránh màu sẫm ưa thích mà chọn trong tủ chiếc áo màu san hô, chiếc áo bằng len mềm, cổ trùm đầu gấp lại quanh cổ. Bà biết rõ là cái màu ấm áp và cái mềm mại của đường viền cổ rất ăn với nét mặt của bà, và một chút điểm trang cẩn thận, bà đã làm tăng tác dụng lên rất nhiều. Một nét khoẻ mạnh trong con người bà khiến Paula không thể không nhận thấy.
Paula nhận ra được rằng điều này được tạo nên bằng phương cách giả tạo tới một chừng mực nào đó, cô luôn luôn biết những cách thức muôn vẻ khác nhau mà bà cô sử dụng. Cô mỉm cười một mình. Thỉnh thoảng bà của cô rất quỷ quái, tuy nhiên cô cũng cảm thấy được một sự rung động thực sự, một năng lực, một mục đích mới. Khi cô ngắm nhìn bà cô kỹ lưỡng, cô cũng phải thừa nhận rằng Emma chính là bản thân cô. Thậm chí còn hơn thế nữa, cô nghĩ, y như bà đã hoàn toàn thanh xuân trở lại.
Cô mỉm cười với bà và nói nhẹ nhàng y như có pha một chút trách móc: "Cháu biết bà rồi. Bà sẽ làm quá nhiều. Bà không được làm quá sức như hôm đầu tiên"
Emma ngả người trong ghế, thầm cảm ơn là mình đã được sống và hoạt động trở lại, trở về với công việc của mình. Lúc này bà hoàn toàn đồng ý chấp nhận mọi sự. "Ồ, bà sẽ không làm thế, cháu ạ. Bà chỉ gọi điện đôi chút và đọc cho Gaye, thế thôi. Bà sẽ nghỉ ngơi thoải mái, bà hứa vậy".
"Vâng", Paula nói thong thả, cô tự hỏi không hiểu bà có định thế thật không. Bà của cô có thể bị cuốn hút trong những hoạt động của một ngày tại cửa hàng. "Cháu hy vọng là bà giữ lời hứa", Paula nói thêm, một nét bình tĩnh trên khuôn mặt cô. "Bây giờ cháu phải đi họp với người thiết kế thời trang cho gian may mặc. Cháu sẽ tạt vào gặp bà sau, bà nhé".
"À này, Paula, bà nghĩ bà sẽ đi Penilstol Royal vào cuối tuần sau nữa. Bà hy vọng cháu có đi với bà", Emma nói với theo.
Paula dừng lại ở cửa và ngoái nhìn: "Tất nhiên ạ'', cháu thích lắm", cô reo to, đôi mắt sáng lên. "Bao giờ bà định đi?"
"Một tuần nữa, tính từ mai. Sáng sớm thứ Sáu. Nhưng chúng ta sẽ thảo luận cái đó sau".
"Tuyệt vời. Sau buổi họp cháu sẽ dọn bàn và huỷ tất cả các cuộc hẹn gặp trong ngày hôm đó. Trong chương trình của cháu không có gì quá quan trọng, vì vậy cháu có thể đi cùng bà".
"Tốt. Cháu sẽ đến uống trà với bà chiều nay lúc 4h, rồi chúng ta sẽ lập kế hoạch".
Paula gật đầu rồi rời khỏi văn phòng, một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt cô khi cô nghĩ tới những viễn cảnh của ngày cuối tuần ở Yorkshire. Cô cũng hết sức nhẹ nhõm khi thấy bà đủ khôn ngoan để kéo dài thời gian phục hồi sức khoẻ bằng cách trở về ngôi nhà nông thôn của mình ở miền Bắc.
Emma giữ lời. Bà thu xếp một vài công việc giao dịch khẩn cấp, thảo luận ngắn với Gaye và cũng David Amory, chồng của Daisy và cha của Paula, cũng là tổng giám đốc điều hành những dãy cửa hàng nhà Hactơ. David là người mà Emma kính trọng và tin cậy hoàn toàn. Bà đang gọi điện thoại lần cuối cùng buổi chiều hôm ấy htì Paula bước vào căn phòng mang theo khay trà. Cô đứng quanh quất ở cửa, đưa mắt dò hỏi theo Emma. Bà ra hiệu cho cô vào bằng cái vẫy tay rồi vội vã tiếp tục nói chuyện. "Rất tốt, như vậy là đã quyết định. Con sẽ tới vào thứ Bảy, tạm biệt". Bà đặt máy xuống, bước qua phòng tới bên lò sưởi, nơi Paula đang ngồi trước một chiếc bàn thấp và pha trà.
Emma nghiêng người về phía trước, sưởi ấm đôi tay và nói: "Cô ấy là người ngỗ nghịch nhất trong tất cả, bà không dám chắc cô ta có nhận lời không, nhưng cô ta lại nhận lời". Đôi mắt xanh của bà ánh sẫm lại trong ánh lửa và một nụ cười thoáng qua trên nét mặt bà có nhiều trách móc. "Quả là nó không còn một sự lựa chọn nào", bà lẩm bẩm một mình và ngồi xuống.
"Ai cơ, bà? Bà đã nói chuyện với ai vậy", Paula hỏi và đưa tách nước trà cho bà".
"Cảm ơn cháu? Dì Edwina của cháu. Lúc đầu cô ấy không biết là có thể sắp xếp được kế hoạch hay không", Emma cười lớn nhạo báng. "Tuy nhiên cô ấy nghĩ lại và cuối cùng quyết định tới Penistol Royal. Tất cả mọi người đều tới".
Paula đang cúi trên tách trà: "Ai cơ, bà? Bà định nói gì? ", cô thoáng bối rối.
"Mọi người đều tới. Các dì, các chú bác, anh chị em họ của cháu".
Một bóng tối lướt qua mặt Paula: "Tại sao?'''', cô ngạc nhiên. "Tại sao tất cả mọi người đều phải tới? Bà biết là họ sẽ gây rắc rối. Họ bao giờ chẳng thế". Đôi mắt cô mở to và nỗi lo sợ thực sự hằn trên nét mặt cô.
Emma ngạc nhiên trước phản ứng của Paula. Bà nhìn cô một cách bình tĩnh những nói một cách gay gắt: "Không chắc như vậy đâu. Sự thật bà hoàn toàn chắc chắn là họ sẽ cư xử tốt đẹp nhất". Một vẻ gì giống như nụ cười điệu thoáng qua trên khoé miệng Emma. Bà ngồi lại, vắt chân lên một cách quả quyết và uống trà, nhìn một cách hờ hững: "Ồ, có chứ, bà tuyệt đối chắc chắn điều đó, Paula ạ". Bà kết thúc một cách dứt khoát, nụ cười điệu nở thành một nụ cười tự tin.
"Ôi, bà, tại sao bà lại như thế?", Paula kêu lên, cái nhìn với Emma đầy vẻ trách móc. "Thế mà cháu cứ nghĩ là chúng ta có thể mong chờ một ngày cuối tuần vui vẻ thoải mái". Cô ngừng lời và cắn môi. "Bây giờ thì mọi sự hỏng bét cả. Những anh chi em họ thì cháu chẳng phiền lòng, nhưng những người khác. Ừ, Kit và Robin, và những người khác hầu như là không thể chịu nổi khi họ ở cùng nhau". Cô nhăn mặt khi nghĩ tới ngày cuối tuần cùng các dì, các chú bác của cô.
"Cháu hãy tin bà, cháu cưng", Emma nói nhẹ nhàng nhưng đầy sức thuyết phục khiến nỗi lo ngại của Paula bắt đầu giảm bớt đi.
"Vâng, thôi được, nếu bà thích như thế. Nhưng nó sớm quá, ngay sau khi bà mới ốm dậy. Bà có nghĩ là bà có thể chịu đựng được một nhà đầy những...đầy những người không?", giọng cô kéo dài ra tội nghiệp, trông cô đau khổ và bơ vơ.
"Họ không phải là những người, có phải thế không nào, cháu cưng? Tất nhiên là không rồi. Chúng ta không thể gạt bỏ họ đi như vậy. Xét cho tới cùng, họ cũng là gia đình của bà".
Paula nhìn chằm chằm vào bình trà, bối rối một cách mơ hồ. Cô liếc nhìn nhanh Emma, bởi vì cô đã để ý tháy một nét giễu cợt cay độc trong giọng nói của bà. Nhưng nét mặt của Emma không biểu lộ điều gì. Bà đang có mưu kế gì đây? Paula suy nghĩ, trong lòng hơi hốt hoảng. Nhưng cô lập tức gạt đi, tự mắng mình quá đa nghi. Cô cố nở một nụ cười rạng rỡ và nói: "Vâng, cháu rất mừng là bố mẹ cháu sẽ đến. Hình như đã lâu lắm cháu không được gặp bố mẹ cháu nhiều, vì cháu đi hết nơi này đến nơi khác". Cô do dự, ngó nhìn sang Emma một cách tò mò rồi vội vã hỏi: "Sao bà lại mời toàn thể gia đình?
"Bà nghĩ sau trận ốm, được nhìn thấy tất cả các con cháu cũng là một điều rất thú vị. Bà cũng không gặp họ được nhiều, cháu ạ", bà trả lời một cách hiền lành rồi hỏi: "Có phải đúng thế không nào?"
Khi Paula đáp lại cái nhìn chằm chằm của bà, cô nhận ra, với một sự choáng váng bất ngời, rằng mặc dù giọng nói dịu dàng của bà, nhưng mắt bà lạnh và cứng như viên ngọc lục bảo Mc Gill lớn lóng lánh nơi ngón tay bà. Một thoáng sợ hãi len vào tim Paula bởi cô nhận ra cái nhìn ấy. Nó rắn như kim cương và cũng nguy hiểm.
"Vâng, cháu cũng nghĩ là bà không gặp họ luôn", Paula nói khẽ nghe như một tiếng thì thào, cô không dám dò thêm nữa và cũng e ngại, không dám khẳng định điều ngờ vực của mình. Và cuộc nói chuyện chấm dứt ở đó.
Một tuần sau vào lúc bình minh, họ rời London đi Yorkshire, lái xe ra ngoài thành phố trong cơn mưa phùn lạnh lẽo. Nhưng khi chiếc Roll Royce rú lên trên trên con đường hiện đại đã thay thế cho con đường Bắc lớn thì thời tiết bắt đầu khá hơn. Mưa đã tạnh và mặt trời ló ra sau những đám mây xanh xám. Emma và Paula trò chuyện linh tinh một đoạn đường, sau đó Emma gà gật ngủ còn Paula thì lo lắng về ngày cuối tuần sắp đến mà mặc dù sự cam đoan của bà cô là không có chuyện gì hết, nhưng ngày ấy vẫn lù lù phía trước như một cơn ác mộng. Cô nhìn lờ mờ ra ngoài cửa sổ, lòng bối rối khi nghĩ tới những bà dì, chú bác của cô.
Kit, tự cao tự đại, khoa trương và Paula thấy đó là một con người lươn lẹo đầy tham vọng, một con người mà lòng căm ghét được che đậy bằng vẻ thân mật giả vờ. Và ông ấy sẽ đi cùng June, bà vợ lạnh lùng băng giá, người mà cô và người anh họ Alexandre đã đặt cho biệt danh là "Tháng Chạp" khi họ còn bé. Một người đàn bà lạnh lẽo không hề có một chút hài hước, con người mà qua bao năm tháng đã trở thành một phản chiếu tẻ ngắt của Kit. Rồi đến ông cậu Robin, đúng là một điều rắc rối nữa. Đẹp trai, cay độc, nói năng giảo hoạt và truỵ lạc một cách lạ lùng. Cô luôn luôn nghĩ ông ta như loài bò sát nguy hiểm, tất cả cái duyên dáng và mượt mà của ông chỉ càng đẩy cô ra xa. Cô đặc biệt ghét ông cậu bởi vì ông đối xử với bà vợ Valery khá xinh đẹp của mình bằng một sự khinh miệt băng giá, một sự rẻ rúng gần giống một sự tàn nhẫn thực sự. Bà dì Edwina của cô là một cái gì không thể hiểu được bởi vì Edwina để hầu hết thời gian lõm bõm đến tận đầu gối trong những vùng đầm lầy Ailen cùng với những con ngựa của bà. Paula nhớ tới bà như một người phụ nữ hãm tài, sĩ diện, tẻ nhạt và đanh đá, không tài nào biết trước được, tính õng ẹo của dì như đâm vào thần kinh Paula.
Cô thở dài. Bức tranh của Penistol Royal hình thành trong đầu cô, ngôi nhà cổ thân yêu ấy đẹp và ấm áp làm sao, ngôi nhà cô yêu thương cũng như Emma yêu thương nó. Cô hình dung ra mình cưỡi ngựa phi ngược lên vùng đầm lầy trong bầu không khí thanh sạch và rồi hoàn toàn bất ngờ, cô nhìn thấy khuôn mặt của Jim Feli. Cô nhắm mắt, trái tim thắt lại. Cô không dám nghĩ tới chàng nữa. Cô không được nghĩ tới chàng. Cô làm mình trở nên cứng rắn đối với những tình cảm xao động. Đau đớn quất vào cô mỗi khi những kỷ niệm với chàng lại xô về.
Paula mở mắt và nhìn ra ngoài cửa sổ, quyết tâm đóng chặt tâm hồn mình với Jim Feli. Tình yêu của cô. Tình yêu duy nhất của cô. Điều ngăn cấm đối với cô vì quá khứ của bà cô. Một lát sau, cô liếc nhìn đồng hồ. Họ đã qua Gratham tiến về Dolcaster rất đúng giờ. Cô đổi thế ngồi và nhắm mắt lại.
Nửa giờ sau, Emma cựa mình và ngồi thẳng lên. Tỉnh hẳn và tươi tắn, bà khẽ nghiêng người nhìn ra ngoài cửa sổ và mỉm cười lặng lẽ một mình. Bà luôn luôn biết khi bà ở Yorkshire. Đó là nơi cội rễ của bà, và xương thịt của bà đáp lại với một sự hiểu biết tiền kiếp và cảm nhận về nơi chốn đó. Nơi chốn của bà, nơi chốn duy nhất bà đã thuộc về nó.
Xe họ bon nhanh trên xa lộ, vượt qua tất cả những thành phố quen thuộc. Cuối cùng họ đến thành phố Sit màu xám, trầm tư, nhưng hùng tráng và giàu có, tràn đầy nghị lực, một trong những trung tâm công nghiệp lớn của nước Anh, nơi những nhà máy quần áo, xưởng len, nhà máy đúc thép, công ty cơ khí, nhà máy ximăng, những nhà máy in lớn. Thành phố của bà. Cơ quan quyền lực của bà, nền tảng của sự thành công và giàu có lớn của bà. Họ qua những cao ốc, nhà máy mà bà làm chủ, những gian cửa hàng khổng lồ mang tên bà, rồi họ lại ra con đường lớn rộng mở hướng về phía nông thôn.
Trong vòng một giờ, họ đã đỗ xe sát đường rải đá cuội của Penistol Royal. Emma nhanh nhẹn nhảy khỏi xe.
Trời rét căm căm, gió như kim châm thổi về từ những cánh đồng hoang, nhưng mặt trời như một quả cầu vàng trên bầu trời xanh thẳm và dưới làn gió thổi, những bông thuỷ tiên tháng Ba nở sớm đung đưa một màu vàng trên thảm cỏ xanh được cắt xén hắt xuống mặt ao. Hoa huệ xa xôi dưới sân hiên lát đá phiến. Emma hít một hơi. Nó hăng hăng mùi than bùn của đồng hoang, của mặt đất ẩm và màu xanh đang nhú của mùa xuan thiên sứ sau một mùa đông khắc nghiệt. Đêm trước trời mưa, sương vẫn bám vào cây, vào bụi, tạo cho chúng một vẻ lóng lánh nhiều màu trong ánh sáng phương Bắc dịu mát.
Như thói quen, Emma nhìn lên ngôi nhà trong khi bà và Paula bước về phía đó. Và một lần nữa, bà xúc động sâu sắc vì vẻ đẹp huy hoàng của nó, một vẻ đẹp đặc biệt Anh, bởi vì không nơi nào khác có một ngôi nhà nở hoa lộng lẫy như vậy và thích ứng với phong cảnh chung quanh như vậy. Sự mở đầu của nó bắt rễ từ thế kỷ 17 và một sự đường bệ của kiến trúc thời Phục hưng hoà hợp, không thể phá huỷ nổi và bền vững với những tháp cổ có lỗ châu mai và những cửa sổ có chấn song bọc chì, hắt ra những tia sáng trên những phiến đá xám phong sương. Nhưng có một vẻ dịu dàng chen vào cái hùng vĩ. Họ không nán lại lâu ngoài hiên, mặc dù trời trong sáng, nhưng ánh mặt trời không chút ấm áp và gió thổi từ biển Bắc nhuốm mùi ẩm lạnh. Emma và Paula bước nhanh trên những bậc thềm, qua hàng rào tạo hình in lên những thảm cỏ nhung, giống như những người lính gác của một thời đã qua.
Trước khi họ tới chiếc cửa lớn bàng gỗ sồi, cửa được mở tung ra. Hilda, người quản gia, đứng trên những bậc đá. ''''Trời ơi, bà'''', chị kêu lên sung sướng, lao lên phía trước để nắm lấy bàn tay chìa ra của Emma."Chúng cháu lo cho bà quá, nhờ Trời bà đã khá hơn? Được đón bà trở về thật vui mừng. Cả cô nữa, Paula''''. Chị lại cười toe toét, đẩy tất cả vào trong nhà. "Vào đi, vào đi không có lạnh''''.
"Tôi không thể nói để chị biết là tôi sung sướng như thế nào khi được trở về nhà", Emma nói khi họ đi vào trong. "Chị thế nào, Hilda?"
"Cháu khoẻ lắm, thưa bà. Chỉ lo cho bà thôi''''.
Emma bước vào giữa căn phòng lớn bằng đá và nhìn quanh, mỉm cười một mình sung sướng. Bà để mắt nhìn bộ bàn ghế bằng gỗ sồi cũ rất đẹp, những tấm thảm buông từ trên tường xuống, những bát bằng đồng lớn đựng hoa thuỷ tiên và cây liễu tơ trên bàn ăn.
"Ngôi nhà trông đẹp quá, Hilda", bà nói với một nụ cười ấm áp. "Chị lúc nào cũng làm ăn khá lắm"
Hilda rạng rỡ: "Cháu đã pha sẵn cafe, thưa bà. Hay là cháu có thể pha trà.Nhưng có lẽ bà thích dùng chút rượu anh đào trước bữa trưa?", chị xăng xái. "Cháu đã để loại bà ưa dùng trong phòng khách trên gác".
"Hay đấy, Hilda. Chúng tôi sẽ lên bây giờ. Bữa trưa sẽ vào khoảng 1h, như vậy được không?"
"Tất nhiên thưa bà"
Paula đi theo bà lên những bậc thang cao vút. "Một lát nữa cháu sẽ tới, bà nhé", cô nói khi họ bước xuống hành lang dài dẫn tới các phòng ngủ và phòng khách trên gác. "Cháu muốn tắm rửa cho sảng khoái trước bữa ăn trưa".
Emma gật đầu "Bà cũng vậy. Bà sẽ gặp cháu ngay". Bà đi vào phòng mình và Paula tiếp tục đi xuống hành lang tới phòng cô. Sau đó, khi bà đã thay quần áo đi đường, mặc bộ đồ len nhẹ, trang điểm lại mặt và tóc, Emma đi vào phòng khách thông sang phòng ngủ. Đây là căn phòng ưa thích của bà. Một ngọn lửa bùng cháy trong lò sưởi, và Hilda đã thắp vài ngọn đèn có chao bằng lụa để cho căn phòng chan hoà một ánh sáng dịu dàng. Emma liếc mắt hài lòng khi bà bước tới lò sưởi để sưởi ấm theo lệ thường.
Khi Emma cảm thấy ấm áp hoàn toàn, bà tới chỗ bàn đứng nhỏ khay bạc đựng đồ uống và những chiếc ly pha lê. Bà rót hai ly anh đào và đem lại bên lò sưởi. Trong khi đợi Paula, bà liếc nhìn những tờ báo buổi sáng. Tờ báo của chính bà, tờ "Yorkshire buổi sáng" coi bộ khá hơn nhiều từ khi bà tuyển Jim Feli về làm giám đốc điều hành. Anh ta đã làm được nhiều thay đổi, tất cả những thay đổi ấy đã làm cho tờ báo tốt đẹp hơn lên. Anh đã sửa lại cả khổ báo và market trong sáng sủa, hiện đại hơn, cả tờ báo buổi chiều của bà nữa, tờ "Yorkshire buổi chiều", cũng do Jim điều khiển. Lợi tức quảng cáo đã tăng lên, số phát hành cũng thế. Jim Feli... Paula... Bà không thể nào nghĩ tới anh mà không nghĩ tới Paula, trong tâm tư của bà, cô gái này luôn trong hình bóng của anh như một định mệnh. Bà thở dài. Cánh cửa mở, Emma thôi không nhìn vào nội tâm của mình nữa. Bà nhìn Paula trìu mến khi cô bước vào phòng. "Bà rót một ly anh đào cho cháu rồi đây, cưng ạ", bà nói và chỉ tay về phía bàn.
Paula mỉm cười vui vẻ. Cô đã thầm quyết định trong phòng riêng của mình, là cô sẽ hết sức vui vẻ với tất cả những người họ hàng khó chịu của mình cuối tuần này. Đó là điều duy nhất cô có thể làm được và trong những hoàn cảnh như vậy, bà cô cần rất nhiều sự ủng hộ trong khi những kẻ hút máu ở quanh mình, như Paula thường gọi họ, mặc dù cô chỉ gọi như thế riêng với mình hoặc với nhưng anh em họ của cô Alexandre và Emilie thôi, những người cùng chung quan điểm với cô.
"Cháu định đi chơi bằng ngựa chiều nay, nếu được", cô nói khi ngồi xuống cùng Emma bên lò sưởi. "Tuy lạnh nhưng trời đẹp quá".
Emma gật đầu thích thú. Bà muốn ở một mình sau bữa trưa và bà định bụng cho Paula đi Lidơ bịa ra một việc lăng quăng gì đó. Bây giờ thì không cần thiết nữa. "Phải, cháu nên đi, cưng ạ. Như vậy tốt cho cháu. Nhưng mặc cho ấm vào. Bà cũng định nghỉ ngơi đôi chút. Bà phải sắp xếp chỗ ngồi cho bữa ăn của cả gia đình vào tối mai rồi bà sẽ nghỉ ngơi".
"Những người khác bao giờ tới ạ?", Paula hỏi, cố ý để cho giọng nói của mình tự nhiên, bình thường.
"Bà nghĩ một số sẽ tới đêm nay. Những người khác ngày mai", giọng Emma cũng nhẹ nhàng như Paula bởi vì bà đã cảm giác thấy nỗi bất hạnh của cô gái về ngày cuối tuần, và bà cũng không muốn cho cháu đau khổ hơn là bà đã đau khổ.
"Chắc là sẽ đầy chật cả nhà, bà nhỉ. Đã bao nhiêu năm nay không tập hợp đông như thế".
"Đúng".
"Dì Elisabeth có đem chồng theo không bà?"
"Hiện nay nó có chồng à?", Emma hỏi không hề có chút ác ý.
"Bà rõ thật là", Paula cười. "Bà biết rõ là dì ấy có mà. Bá tước người Ý, Gianni"
"Hừm. Hắn là bá tước cũng như bà là giáo hoàng ấy mà", Emma nói một cách mỉa mai. "Bà thấy hắn giống một tên bồi bàn người Ý hơn". Bà uống rượu anh đào, cặp mắt xanh của bà long lanh trên ly rượu.
"Bà ạ, cậu ấy rất hay. Hay hơn dì Elisabeth nhiều."
"Cháu nói đúng. Cái anh chàng này bền hơn những anh khác, cháu thử nghĩ mà xem, bà cũng lấy làm ngạc nhiên là dì cháu còn chưa bỏ anh ta. Phải chăng cũng đã đến lúc rồi?"
Paula lại cười: "Cháu cũng không biết. Nhưng dù sao thì cuộc hôn nhân này cũng sẽ tốt hơn lần trước".
"Và hơn tất cả những lần trước nữa", Emma bình luận một cách khô khan.
Paula thích thú: "Bà cũng có nhiều chồng mà, bà".
"Không nhiều như Elisabeth, hơn nữa bà không ly dị hết người này đến người khác. Chồng của bà cũng không ngày một trẻ hơn trong khi bà ngày một già đi", Emma nhận định. Nhưng bà còn óc hài hước để mà cười. "Tội nghiệp Elisabeth, nó có một thái độ quá lý tưởng đối với tình yêu và hôn nhân. Bây giờ nó vẫn cứ lãng mạn như năm nó 16 tuổi. Bà chỉ ao ước giá như nó ổn định đi"
"Và lớn lên nữa chứ bà. Vâng, cháu chắc dì sẽ mang Gianni và hai người con sinh đôi tới. Cháu chắc dì sẽ lái xe đến tối nay".
"Ừ, chắc nó sẽ làm thế. Bà nói với nó hôm qua và nó..."
Hilda gõ cửa và nhảy vào phòng. "Thưa bà, cơm trưa đã xong", chị thông báo và nói thêm giọng tự hào: "Đầu bếp đã làm tất cả những món bà ưa thích".
Emma mỉm cười. Bà rất mến chị giữ nhà đã ở với bà 30 năm, và trong suốt thời gian ấy bà không hề có một lời nói nặng. Hầu hết cuộc đời của Hilda đã tận tuỵ với công việc của Penistol Royal, chị làm không hề phô trương mà lại rất có hiệu quả. Hilda đứng ngoài hành lang phía ngoài cửa phòng ăn. Chị giữ cánh cửa cho hai bà cháu rồi theo họ vào phòng. "Thưa bà, đầu bếp đã làm món canh rau tươi bà thích, và món cá hồi rán". Chị lăng xăng tới tủ buffet để hầu cơm bà và nói thêm: "cả khoai rán nữa. Cháu biết là bà đang ăn kiêng không dùng thức ăn rán, nhưng một lần này thì cũng chẳng sao", chị nói và múc canh vào những chiếc bát.
"Ô, nếu chị đã nói như thế, Hilda", Emma cười và nháy mắt với Paula, cô hết sức kinh ngạc vì cái nét mặt bất ngờ này của bà cô đến nỗi suýt nữa đánh rơi cốc nước đang cầm trong tay.
Chiều hôm đó, trong khi Paula phi ngựa trên những cánh đồng hoang, Emma ngồi trên gác trong phòng khách của bà và xem xét tất cả những giấy tờ hợp lệ đã được các cố vấn pháp luật của bà chuẩn bị trước khi bà ốm. Bà để một thời gian nghiên cứu chúng cẩn thận và khi đã xong, bà gọi điện cho Henry Rositer ở London.
Thăm hỏi rất nhanh theo lệ thường rồi bà nói: "Henry này, công việc giải quyết những tài sản cá nhân của tôi đến đâu rồi?"
"Tất cả các giấy tờ đã ở trước mặt tôi đây, Emma. Tôi vừa xem xét xong tất cả", ông trả lời và hắng giọng.
Emma thấy giọng nói của ông đột nhiên nghe run run và mệt mỏi. Ông bạn thân mến của mình đã già, bà nghĩ, lòng buồn bã. Bao giờ ông ấy về nghỉ chắc mình sẽ thấy nhớ thiếu rất nhiều. Bản thân Emma không hề có ý định nghỉ hưu. Bà sẽ chết ngồi sau bàn làm việc, thẳng người.
"Vâng, đúng. Tôi có tất cả đây rồi, Emma. Mọi thứ đã được bán xong, giá cả rất ổn. Thực tế là tuyệt vời. Không dưới 9 triệu pao. Không tồi, hả?"
"Tuyệt hảo. Henry! Tiền đâu?"
"Sao? Ở ngay nhà băng đây. Thế bà nghĩ nó còn ở đâu nữa, Emma thân yêu?", giọng ông nghe có vẻ giật mình, thậm chí còn có vẻ hơi sỉ nhục nữa. Emma cười thầm.
"Tôi biết là nó ở nhà băng, Henry, nhưng nó để ở tài khoản nào?", bà hỏi một cách kiên nhẫn.
"Tôi để nó ở tài khoản riêng của bà đó, E.H Công ty"
"Làm ơn chuyển khoản ngay hôm nay, Henry. Chuyển vào tài khoản hiện nay của tôi. Tài khoản cá nhân hiện nay của tôi".
Emma thấy rõ là Henry kinh ngạc. Yên lặng vài giây, rồi bà thấy ông hít mạnh. Khi đã có thể nói được, ông nói: "Emma, như vậy nực cười quá. Không ai lại để gần chín triệu bảng vào một tài khoản cá nhân. Bà đã có khoảng 200.000 ở tài khoản đó rồi. Tôi nhớ bà nói với tôi là bà cần 6 triệu bảng cho một kế hoạch cá nhân nào đó nhưng phần còn lại của số bán sẽ được dùng cho bà".
"Tôi không muốn dùng cho tôi, Henry. Tôi muốn nó ở tài khoản cá nhân của tôi", bà cười và không kìm được ý muốn trêu chọc ông tý chút. "Tôi có thể muốn đi mua sắm, Henry"
"Mua sắm!", ông nói to. "Này Emma, dù cho là bà đi nữa cũng không thể mua sắm với một số tiền như thế. Đó là một điều lố bịch nhất tôi nghe thấy bà nói trong suốt những năm tháng tôi biết bà". Ông nổi giận đùng đùng.
"Chắc chắn là tôi có thể dùng số tiền đó đi mua sắm, Henry ạ, tất nhiên là phụ thuộc vào chỗ tôi muốn mua chính xác cái gì". Emma nói một cách gay gắt, lòng thầm nghĩ óc hài hước tuyệt vời của Henry hình như tan biến vào thinh không khi ông bàn tới tiền.
"Thôi Henry, xin ông đừng bàn tới tiền nữa; Ông hãy rút tiền phí tổn trong công việc bán và thuế phải trả, còn lại bao nhiêu để cả vào tài khoản cá nhân hiện nay của tôi".
Ông thở dài tuyệt vọng: ''''Được lắm, tôi cho là bà biết rõ điều bà đang làm. Xét cho tới cùng thì đó là tiền của bà cơ mà, Emma".
"Ông nói đúng quá đi rồi", Emma nghĩ bụng
Emma vạch kế hoạch chỗ ngồi cho bữa ăn gia đình vào tối thứ 7 và chuẩn bị một thực đơn có tính gợi ý cho Hilda. Rồi sau khi khoá những tài liệu hợp pháp trong cặp, bà đi vào phòng ngủ để nghỉ ngơi. Đó sẽ là một ngày cuối tuần cực kỳ khó khăn, điều ấy thì bà hoàn toàn chắc. Tuy nhiên, bà lại không cảm thấy một nỗi lo ngại hoặc một thoáng lo âu nào mà chỉ là một sự thờ ơ lạnh lùng, sự lợm giọng tự nhiên khi bà nhìn thấy trước những cảnh buộc phải xảy ra tiếp theo bữa ăn gia đình đêm thứ 7.
Bà đã từng căm ghét những cảnh mà bản chất hung bạo và thói phù phiếm của họ vừa làm bà khó chịu vừa tức giận, bà đã cố gắng hết sức để tránh cho họ, đặc biệt là con cái họ. Mặc dù đã đoan chắc với Paula, bà biết thế nào cũng có một cuộc đấu khẩu không thể tránh khỏi trong một vài ngày tiếp theo. Bà chấp nhận sự thật này một cách cam chịu và tôi luyện cho cứng rắn để chuẩn bị. Bà không chắc có một đứa con nào của bà, ngoài Daisy, gần đây có phát triển được một sức mạnh bên trong -giúp họ chịu đựng được một sự khủng hoảng đột ngột với chút ít kiên cường. Nếu như chúng có được thì đây là một điều ngạc nhiên choáng váng đối với bà, nhưng bà sẽ vui mừng đón tiếp sự phát triển này bởi vì nó rõ ràng là làm nhẹ đi một chút điều không mấy thú vị. Đồng thời bà không phải dò xem lúc đầu chúng sẽ phản ứng như thế nào với tin tức bà đưa ra. Emma hiểu chúng quá rõ để mà biết trước và đo được phản ứng của chúng. Ngoài Daisy, người không dính dáng gì, còn lại tất cả bọn chúng sẽ lần lượt bị sốc, và tức giận vì cái tin bà sẽ thông báo. Bà nhận ra rằng bà sắp giáng một đòn nhanh và khủng khiếp, một đòn sẽ làm ảnh hưởng cả cuộc đời họ. Nhưng bà không cảm thấy bất ổn hoặc thương hại, bởi vì đó sẽ là một đòn từ thanh gươm mà họ đã buộc bà phải cầm lên và sử dụng để tự vệ.
Bà cũng không cảm thấy một cảm giác tội lỗi về những kế hoạch khôn cùng bà đã hoạch định cho tương lai. Và chắc chắn là không một chút xót thương nào cho những kẻ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Chỉ có một nỗi buồn xé nát tâm can vùi chôn trong lòng bà, thỉnh thoảng nó lại như một vành đai thép thít quanh ngực bà. Nó nảy sinh từ niềm đau, nỗi thất vọng trong các con cái của bà, và từ nỗi kinh hoàng lạnh sống lưng khi biết là họ đã âm mưu một cách nhẫn tâm chống lại bà. Từ nhiều năm trước đây, Emma đã thôi không còn trông đợi ở tình yêu thương của họ, và bà cũng không còn tìm sự tán thành của họ, nhưng dù vậy, không bao giờ bà hình dung đưọc là bà lại có lý do để đặt dấu hỏi cho lòng trung thành của họ. Những âm mưu khủng khiếp của họ lúc đầu làm bà kinh hoàng, nhưng các phản ứng ban đầu này đã nhanh chóng được thay thế bằng sự căm giận tê dại và cuối cùng chỉ còn là sự khinh bỉ. Bà mỉm cười một cách cay độc khi nghĩ tới sự lừa lọc của họ, một sự lừa lọc non nớt, quá thiếu cái khéo léo và trí tưởng tượng mà bà đã biết ngay từ lúc bắt đầu.
Ít nhất bà đã có thể tỏ được một chút kính trọng tiết kiệm đối với chúng nếu chúng bớt lộ liễu đi và khôn ngoan lên một chút trong âm mưu của chúng. Emma luôn có khả năng đứng lùi lại và chiêm ngưỡng một đối thủ mạnh và quỷ quyệt, dù sự thán phục ấy có hằn học đến mức nào. Còn như đối với con cái của bà, bà kinh ngạc trước sự thiếu suy xét của chúng, sự khờ khạo đã đẩy chúng tới những hành động liều lĩnh tàn hại, rõ ràng đã dẫn chúng tới chỗ đánh giá thấp bà.
Bà cau mặt và hướng ý nghĩ của mình khỏi những thành viên chống đối trong gia đình bà, dồn tình yêu thương cho Daisy, Paula và những đứa cháu khác. Cuối cùng sự bình tĩnh được lập lại, bà ngủ, một giấc ngủ sâu không gợn chút ám ảnh.
Bữa uống trà chiều là một nghi thức ở Penistol Royal trong nhiều năm nay. Đó là một nghi thức mà Emma ưa thích, nhưng cho dù bà không thích chăng nữa thì Hilda cũng không cho phép nó được bỏ rơi. "Bước qua xác cháu, thưa bà", chị đã kêu to khi mấy năm trước Emma đã có ý kiến là hãy bỏ cái lệ đó đi. Emma đã nhún vai và cười một cách vô vọng.
Và như vậy là đúng 4h, Hilda lươts vào phòng khách tay bê một khay trà Georgia bằng bạc trang trí thanh nhã, và đồ sứ tuyệt đẹp, trong suốt khi giơ lên ánh sáng. Đi theo chị là một trong hai người hầu gái trẻ hàng ngày đến làm việc nhà, cô gái cũng mang một khay to tướng đầy thức ăn do đầu bếp chuẩn bị thật công phu.
"Để nó lên bàn một chút, Brenda", Hilda bảo, "và khiêng một trong những chiếc bàn nhỏ lại đây bên lò sưởi". Chị cũng để khay của mình xuống, thở hổn hển vì mệt, chị dừng lại chỉ chỗ cho Brenda để chiếc bàn thứ hai chỗ nào cho tiện lợi. Hai người đàn bà cẩn thận đặt những cái khay phía trước lò sưởi rồi Brenda lặng lẽ ra khỏi phòng, để Hilda sắp xếp lại cho hoàn chỉnh. Chị quan sát tác phẩm của người đầu bếp một cách phê phán, rồi nở một nụ cười thoả mãn trên cặp má hồng tròn trĩnh. Có những chiếc bánh nướng phết bơ nóng, những lát bánh mì mỏng và bơ, mứt dâu nhà làm lấy, kem cứng, bánh sandwich dưa chuột, cà chua, cá hồi hun khói, bích quy ngọt, bánh trái cây có hạnh nhân rắc lên trên. Đúng là một bữa uống trà Yorkshire cổ xưa. Hilda cẩn thận gấp những chiếc khăn ăn bằng vải gai mịn để ở mỗi đĩa một chiếc với một con dao bạc nhỏ cán ngọc và dĩa, cho thêm củi vào lửa, làm tròn trĩnh những chiếc gối, rồi nhìn quanh. Rồi chị tự nhủ là mọi thứ đâu vào đấy, chị đã hoàn toàn hài lòng, bèn gõ cửa phòng ngủ của Emma.
"Bà có thức không, thưa bà?"
"Thức, Hilda à. Vào đi".
Hilda mở cửa thò đầu vào mỉm cười. "Trà đã xong", chị báo tin. "Và cô Paula đã đi chơi ngựa về. Cô ấy dặn cháu nói với bà là cô ấy sẽ có mặt trong vài phút nữa. Cô đang thay quần áo đi ngựa".
"Cảm ơn Hilda. Tôi sẽ tới ngay".
"Thưa bà, nếu bà cần gì xin cứ bấm chuông gọi", Hilda nói thêm, rồi xuống bếp để uống trà của mình và khen ngợi đầu bếp một tiếng.
Một lát sau Paula tới, đứng ở ngưỡng cửa và nín hơi, ngỡ ngàng trước cái đẹp của phòng khách. Nó yên ắng, y như thể thời gian không đi qua đó. Âm thanh duy nhất là tiếng lách cách của lửa cháy trong lò sưởi lớn. Ánh mặt trời chiếu vào qua cánh cửa sổ bọc chì cao màu vàng bụi, tắm những đồ đạc và những bức hoạ trong một làn ánh sáng dịu xốp và không gian ngát mùi hương hoa lan, dạ hương và hoa mùa xuân, tràn ngập bao bọc lấy cô trong mùi hương ngây ngất. Có một cái gì nhoi nhói trong căn phòng cổ rộng lớn này. Kỷ niệm xôn xao trong lòng cô, thấp thoáng ẩn hiện và đầy nhớ nhung. Cô lặng lẽ lướt qua sàn như sợ không dám chuyển động trong vùng yên tĩnh ấy, tiếng sột soạt của tà áo cô có thể làm ngắt quãng và phá vỡ sự yên bình êm dịu. Cô ngồi xuống một chiếc xôpha, mắt nhìn quanh phòng. Ở đây thật dễ có thể quên cái thế giới bên ngoài, một thế giới đầy đau đớn, xấu xa và thất vọng. Cô trôi nổi nhẹ nhàng bên bờ kỷ niệm, nhớ lại tuổi thơ ở nơi này, thời kỳ sung sướng cô đã sống ở đây cùng cha mẹ, các anh chị em họ và bạn bè. Và Bà. Luôn luôn có Bà. Bà của cô không bao giờ xa, luôn có mặt để lau nước mắt cho cô, cười những trò nghịch ngợm trẻ con của cô, thán phục những thành tựu nhỏ bé của cô, mắng mỏ, chiều chuộng và yêu thương cô. Bà đã tạo nên cô như ngày nay. Chính Bà đã nói với cô rằng cô đẹp, thông minh và là một con người đặc biệt. Một người độc đáo, Bà đã nói vậy. Chính bà cô đã cho cô sự yên ổn bên trong, lòng tự tin và sức mạnh. Người đã dạy cô đối mặt với sự thật không chút sợ hãi và một trái tim dũng cảm.
Cô không nghe thấy Emma bước vào, bước chân bà quá nhẹ. Cả Emma nữa, cũng dừng lại để ngắm nhìn nhưng sự chú ý của bà chỉ tập trung vào Paula. Con bé trông dễ thương quá đi, Emma nghĩ trong lòng, như một hình ảnh trong một bức hoạ cổ nào đó, xa xôi, đăm chiêu, một thiếu nữ với con kỳ lân.
"Cháu đây rồi", Emma reo lên. "Trông cháu đẹp và tươi mát quá, sau khi đi ngựa về"
Paula liếc nhìn lên nhanh, thoáng giật mình. "Ôi bà, bà làm cháu giật mình. Cháu đang ở tận đâu đâu".
Khi Paula ngồi đối diện với Emma, mắt bà sáng lên bên trên khay trà: "Trời ơi, cháu hãy nhìn tất cả khay thức ăn này. Mà chỉ còn vài tiếng nữa là đến bữa ăn chiều rồi".
Paula cười: "Cháu biết! Có lẽ bác ấy muốn bà thêm dồi dào sức khoẻ. Bà biết bác ấy rối rít lên như thế nào chung quanh bà. Bác ấy đã lên tỉnh hôm nay. Giống như bữa ăn bác ấy thường làm khi cháu còn nhỏ".
"Bà không đói chút nào", Emma lẩm bẩm. "Chị ấy sẽ phật lòng lắm nếu chúng ta không ăn gì cả".
"Cháu đói như cào đây này, bà đừng lo", Paula nói, tay cầm một chiếc sandwich lên. Trên đồng hoang trời lạnh, vì thế cháu đã phi ngựa nhiều dặm. Như vậy chắc ăn ngon miệng lắm".
Cô cắn miếng bánh. Emma nhìn tán thành.
"Bà rất mừng thấy cháu hôm nay mới bắt đầu ăn. Hình như lúc nào cháu cũng chỉ gẩy gẩy thức ăn thôi. Thảo nào mà cháu chẳng gầy thế".
Điện thoại reo. Paula nhảy lên: "Bà khỏi phải bận tâm", cô vừa nói vừa lao ngang phòng. "Có lẽ chỉ là một người nào đó trong gia đình thôi".
Cô cầm máy lên: "Bác Hilda để cháu nghe cho. Alô, Paula đây. Dì muốn nói chuyện với bà à?". Cô nghe rồi nói: "Ồ vâng. Vâng. Tốt. Tạm biệt.". Paula quay trở lại chỗ của mình trên ghế sôpha. "Dì Elisabeth. Dì sẽ đến sáng mai và mang hai con sinh đôi đến, cả chồng nữa".
"Vậy là bây giờ chúng ta biết rồi", Emma nhận xét và cười. Điện thoại lại reo. "Trời ơi, bà hy vọng họ không cùng gọi để mà nói với chúng ta khi nào họ sẽ tới. Như vậy thì sẽ tiếp tục suốt cả ngày", Emma thốt lên thiếu kiên nhẫn.
Paula vội vã đi ngang phòng nghe điện mà lúc nào cũng là do Hilda nghe trước: "Emilie, khoẻ không?", cô kêu lên khi nhận ra tiếng của người chị em họ. Họ là bạn thân của nhau. "Ồ, tất nhiên là khỏe. Bà ở ngay đây". Paula đặt ống nghe xuống bàn và gọi Emma: "Emilie đấy bà ạ, nó muốn nói chuyện với bà".
"Cháu biết Emilie rồi đó, đây có thể là một câu chuyện rất rắc rối", Emma nói với một nụ cười. Bà cầm tách trà của mình lên mang ra bàn giấy. Vừa ngồi xuống, bà nhấc ống nghe lên, nói nhanh nhẹn:
"Chào cháu, cháu có..."
"Cháu khoẻ, bà ạ", Emilie nói chen ngay bằng cái giọng trẻ trung hổn hển của cô, vẫn líu ríu như bao giờ. "Cháu không thể nói dài được. Cháu đang vội lắm đây! Nhưng cháu chỉ muốn nói với bà rằng Sarah đang từ London bay về trưa hôm nay. Cháu sẽ đem xe đến đón Sarah tại sân bay Yeadon vào 6h30, như vậy chúng cháu nhất định sẽ tới ăn bữa tối. Ồ, mà Alexandre bảo cháu nói với bà rằng có thể đến chậm. Cậu Kit rất là hung hăng với cái máy đó. Cậu ấy bảo Alexandre phải xem xét lại tất cả những con số. Alexandre nổi cáu! Vâng, dù sao thì, anh ta nghĩ là sẽ có thể có mặt ở Penistol lúc 8h, nếu như vậy không quá muộn. Cả Jonathan cũng đi xe lửa từ London tới Lidơ, nhưng Jonathan nói không cần bảo Smith đem xe đi, anh ấy sẽ kiếm taxi".
Tất cả những lời nói trên được tuôn ra thành một tràng không ngừng nghỉ, đúng kiểu của Emilie mà Emma đã quá quen thuộc. Bà ngồi lại thoải mái, ánh vui vui trong mắt, bà lắng nghe chăm chú thỉnh thoảng lại nhấp nháp trà. Emilie lúc nào cũng hấp tấp vội vàng, eo hẹp thời gian hơn cả bà. Emma thường nghĩ cô cháu gái láu táu liến thoắng của bà hình như nói với hàng loạt những dấu chấm than. Bà nói trêu: "Đối với ai đang vội, cuộc nói chuyện này hình như là rất dài, cháu Emilie yêu của bà ạ".
"Bà! Bà đừng nói thế. Cháu không thể chịu được nếu tất cả những đứa cháu ngu ngốc của bà làm cái nơi ký thác những lời nhắn gửi của họ. Mà, cháu còn một cái nữa. Philippe định cố gắng tới với cháu, nếu không anh ta sẽ cùng lái xe với Alexandre. Bà thân yêu..."Emilie ngừng lại, giọng cô thấp xuống và bỗng nhiên êm dịu đầy sức hấp dẫn du dương: "Cháu có thể xin bà một điều không?"
"Tất nhiên, cháu yêu", Emma trả lời và cố nén một nụ cười thú vị nhưng đầy âu yếm. Bà đã biết quá rõ cái giọng phỉnh phờ ấy của Emilie khi cô muốn một điều gì.
"Bà có thể cho cháu mượn một trong những chiếc áo dạ hội của bà được không bà? Tuần trước khi cháu tới Bradford, cháu chỉ mua có vài thứ thôi. Cháu không hề biết bà lại mở một bữa tiệc gia đình lớn. Cháu chẳng có gì để mặc cả. Cháu đã ngó khắp các cửa hàng ở đây hôm nay và mọi thứ đều cổ lỗ quá đi. Mà cháu thì không có thì giờ để tới cửa hàng ở Lidơ".
Emma cười: "Nếu cháu nghĩ là những quần áo trong cửa hàng là cổ lỗ thì bà cũng không hiểu cháu có thể tìm gì được ở đây, cháu cưng!", bà nói, lòng phân vân không hiểu một cô gái hoạt bát tóc vàng 21 tuổi có thể thấy được cái gì thích hợp trong tủ áo của bà.
"Cái áo sa đỏ đó! Cái áo từ Paris! Nó hợp với cháu đấy. Cả đôi giày lụa đỏ nữa", Emilie nói sôi nổi. "Cháu biết là bà không phiền lòng để cháu thử, vì thế cháu đã mặc thử cuối tuần khi cháu ở Penistol. Cháu mặc trông tuyệt vời bà ạ. Bà ơi, cho cháu mượn nhé. Cháu sẽ giữ cẩn thận mà".
"Bà đã quên cái áo ấy rồi đấy, Emilie ạ. Tất nhiên là cháu có thể mặc nếu cháu thích. Chính bà cũng không hiểu tại sao bà lại mua nó nữa. Có lẽ cháu muốn có chiếc áo ấy", Emma gợi ý một cách rộng lượng.
Emilie xuýt xoa hít hà thật mạnh vì ngạc nhiên thú vị, nhưng cô lại nói: "Ôi, bà yêu quý, cháu không thể làm như thế được". Rồi ngừng lại một chút: "Thế bà không cần nó nữa, hở bà?"
Emma cười thầm: "Không thật sự cần, Emilie ạ. Đối với bà nó hơi rợ quá. Cho cháu đấy".
"Ôi, bà, trời ơi. Cám ơn bà, bà yêu thương. Bà là thiên thần. Bà ơi...?"
"Gì thế, Emilie. Còn gì nữa thế?"
"Hỏi mượn bà đôi hoa tai kim cương cũ có phải là một đòi hỏi quá đáng không bà? Chiếc áo đó cần một chút...vâng, cần một chút gì đó phải không bà?", Emilie kêu lên một cách say sưa. "Nó cần đồ nữ trang tốt, bà có nghĩ thế không?"
Emma bật cười."Emilie, cháu thật là buồn cười quá. Bà không biết đôi hoa tai kim cương cũ là thế nào. Bà có một vật như thế à?"
"Vâng. Đôi bông tai đó. Đôi bông toòng teng đó. Bà không bao giờ đeo chúng. Có lẽ bà đã quên chúng rồi". Emilie nói, giọng cô cất cao đầy hy vọng.
"Ồ, cái đó hả. Cháu có thể đeo nó hoặc bất cứ cái gì khác cháu muốn. Mà mọi việc ở cửa hàng Bradfofd ra sao rồi?"
"Cám ơn bà, về đôi hoa tai, cháu muốn nói thế. Mọi việc ở đây rất tốt đẹp. Khi nào gặp bà, cháu sẽ kể cho bà nghe một số thay đổi. Còn thì tất cả đều yên tĩnh và buồn tẻ".
"Ồ, tuần sau cháu sẽ ở Lidơ, và nó không đến nỗi quá tồi đâu", Emma nhắc nhở. "Và chúng ta sẽ nói chuyện về những thay đổi của cháu tối nay. À, mà bọn con trai có đến muộn cũng không sao đâu. Hilda luôn làm đồ ăn nguội để ăn buổi tối những ngày thứ sáu", Emma giải thích và nói tiếp: "Mẹ cháu vừa gọi điện xong. Ngày mai mẹ cháu sẽ tới..."
"Bà, trời ơi, cháu quên đi mất!", Emilie nói chen. "cháu muốn báo động cho bà một điều khủng khiếp. Mẹ cháu vừa cãi cọ một trận ghê gớm với hai đứa sinh đôi, về chuyện một bức tượng gì đó chúng đã làm cho bà. Chúng cứ đòi mang đi, còn mẹ cháu thì nói trông nó gớm ghiếc và không để vào trong xe được. Nhưng điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, với tất cả những hành lý bà ấy có mang theo. Dẫu sao thì chuyện um lên và hai đứa sinh đôi rất khổ sở, chúng muốn chuyển đến sống với bà. Cháu muốn bà biết để đón trước sự việc!". Cô thở dài thê thảm: "Một cái gia đình gì như vậy?".
"Cảm ơn cháu đã cho bà biết, "Emma nói một cách tư lự. "Nhưng thôi đừng lo những chuyện ấy bây giờ vội. Bà chắc đến khi Elisabeth tới thì hai đứa bé sinh đôi sẽ trấn tĩnh trở lại. Chúng có thể ở với bà một thời gian nếu chúng thích. Thế thôi chứ, Emilie?", Emma hỏi một cách kiên nhẫn".
"Vâng ạ. Trời! Cháu phải đi đây bà ạ. Cháu muộn lắm rồi. Tạm biệt bà, hẹn gặp bà tối nay"
"Tạm biệt...", Emma nhìn chằm chằm vào ống nghe rồi cười to. Emilie đã đặt máy xuống. Bà ngả người trong ghế, lắc đầu và vẫn còn cười. "Bà không ngạc nhiên chút nào thấy những người quản lý cửa hàng run lên khi Emilie tới. Nó là một cơn lốc".
Paula mỉm cười với Emma, gật đầu đồng ý. "Cháu biết. Nhưng nó hết sức thạo việc bà ạ. Cháu nghĩ bà nên xem xét việc đưa nó tới cửa hàn Paris trong một thời gian. Nó thật là tuyệt".
Emma rướn mắt ngạc nhiên: "Nhưng nó đâu có nói được tiếng Pháp, chứ nếu không thì bà đã cân nhắc chuyện này rồi.
"Nó có nói đấy, bà ạ", Paula ngồi thẳng lên. "Nó vẫn đang học", cô giải thích, cẩn thận thăm dò. "Cô ấy muốn đi lắm và cháu nghĩ nó có thể là câu trả lời mà bà vẫn tìm kiếm"
"Ờ, để bà nghĩ xem", Emma nói, khá hài lòng vì tin của Paula. Emilie cần mẫn, bà biết điều đó. Có lẽ đó là một giải pháp. Emilie giống như tất cả các cháu khác của bà, đã đủ lớn khôn, đều làm việc trong các công ty của Hactơ và đã tỏ ra không hề biết mệt mỏi và siêng năng trong công việc. Bà sẽ xem xét chuyện đó sau. Bây giờ bà hướng đầu óc mình vào những vấn đề cấp bách hơn. "Bà đã lập một kế hoạch chỗ ngồi cho bữa ăn", Emma bắt đầu nói và tự rót cho mình một tách trà nữa.
Paula thích thú nhìn bà: "Vâng. Bà đã bảo với cháu là bà sẽ vạch một kế hoạch mà". Paula chờ đợi.
Emma hắng giọng: "Bà nghĩ là bà đã để cho mọi người ngồi đúng chỗ của họ. Bà đã cố gắng tách những người không ưa nhau lắm, mặc dù, như bà đã nói, bà chắc mọi người sẽ cư xử với nhau tốt đẹp nhất". Bà để tay vào túi và những ngón tay của bà nắm chặt tờ giấy. Bà vẫn trù trừ không muốn đem ra và đưa cho Paula.
"Cháu hy vọng như vậy bà ạ. Đông người lắm và bà cũng biết là một vài người rất khó tính". Cô cười một cách mai mỉa. "Không thể chịu đựng được, có phải bà nói thế không?"
"Ờ, đúng thế", Emma trả lời. Bà ngả người vào xôpha,nhìn Paula chăm chú dò hỏi. "Bà cho là tất cả bọn họ đều nghĩ là bà trút hơi thở cuối cùng mấy tuần vừa rồi, có phải thế không cháu?"
Câu hỏi bất ngờ làm Paula ngạc nhiên. "Cháu không biết", cô bắt đầu một cách suy nghĩ. "Có lẽ...", cô do dự rồi sự bực bội với các bà cô, bà dì, ông chú, ông bác đã thắng thế. "Ồ, họ là những con đỉa hút máu, bà ạ", cô thốt lên một cách tức giận. "Cháu không hiểu vì sao bà lại bận tâm với họ làm gì. Cháu xin lỗi. Cháu biết họ là các con của bà, nhưng cháu rất tức giận mỗi khi cháu nghĩ tới họ".
"Cháu không cần phải xin lỗi bà làm gì, cháu cưng ạ. Bà biết quá rõ họ là thế nào chứ", Emma mỉm cười gượng gạo. "Bà không tự dối mình rằng họ tới thăm bà vì quan tâm tới bà. Họ nhận lời mời của bà chỉ vì tò mò thôi. Những con chim kền kền tới nhìn xác chết. Nhưng bà chưa chết và bà cũng không lập những kế hoạch tức thời để chết". Bà kết thúc, một âm thanh chiến thắng trong giọng nói của bà.
Paula vội nghiêng người ra nhìn Emma chằm chằm: "Thế thì tại sao bà lại mời họ, nếu bà đã rõ họ là thế nào?", cô hỏi bằng một giọng cố tình.
Emma mỉm cười một cách bí ẩn và con mắt bà trở nên lạnh lùng. "Bà muốn gặp tất cả bọn họ cùng với nhau một lần cuối cùng".
"Bà đừng nói thế. Bà đã khỏe hơn rồi và lần này cháu sẽ trông nom bà cẩn thận. Kệ xác cửa hàng và công việc", Paula kêu lên cuồng nhiệt.
"Nói lần cuối cùng, bà muốn nói là lần cuối cùng bà sẽ mời họ đến đây trong một ngày cuối tuần thế này", Emma tuyên bố. "Bà có một chút công việc gia đình phải để mắt tới, và bởi vì họ có liên quan nên họ phải đến đây, tất cả bọn họ, cùng nhau". Miệng bà mím lại thành một nét kiên quyết quen thuộc, mắt tối sẫm lại lóng lánh.
Paula quan tâm: "Bà phải hứa với cháu là bà sẽ không để họ làm bà khó chịu", cô nói và để ý thấy vẻ biểu hiện trên nét mặt Emma. "Và bà cũng không nên lo lắng về công việc gia đình cuối tuần này. Nó quan trọng đến nỗi không thể chờ đợi được sao?", cô hỏi một cách hung dữ.
"Ồ, không phải chuyện sống còn đến như vậy đâu", Emma nói và nhún vai một cách thoái thác. "Chỉ là một số chi tiết có liên quan tới quỹ tơrơt. Nó không lâu đâu và bà không để họ quấy rầy bà đâu". Một nụ cười nửa miệng thoáng qua nét mặt bà. "Thực ra mà nói, bà lại trông chờ nó".
"Cháu không chắc là cháu có mong đợi nó hay không", Paula nói một cách thận trọng. "Cháu có thể xem bản sơ đồ chỗ ngồi không ạ?"
"Tất nhiên rồi, cháu yêu", Emma nhích người để tay vào trong túi. Bà sờ nắn mảnh giấy và do dự, rồi hít một hơi dài, bà rút nó ra. "Đây", bà đưa cho Paula,chờ đợi, người cứng lại, không dám thở nữa.
Đôi mắt Paula lướt nhanh trên tờ giấy. Emma theo dõi thật chặt. Dôi mắt cô dừng lại, mở to. Các chuyển động tiếp. Lại quay trở lại chỗ cũ. Một nét nhìn hoàn toàn không thể tin được lướt qua khuôn mặt cô. "Tại sao bà? Tại sao?", giọng cô cất cao lên giận dữ và tờ giấy bay trên sàn. Emma yên lặng, đợi cho sự ngạc nhiên ban đầu qua đi, cho Paula bình tĩnh trở lại.
"Tại sao?", Paula chất vấn. Cô nhảy lện mặt trắng bệch, miệng run run. "Bà không có quyền mời Jim Feli tối mai. Anh ta không phải là người trong gia đình. Cháu không muốn anh ấy ở đây. Cháu không cho anh ấy đến đây. Cháu không cho! Cháu không cho! Tại sao bà có thể làm như vậy, bà ơi!"
Cô chạy ra cửa sổ. Emma có thể thấy cô đang vật lộn để trấn tĩnh. Đôi vai gầy của cô nhô lên, cô ép trán vào khung cửa kính, xương vai nhỏ nhô lên dưới làn áo lụa. Trái tim Emma thắt lại vì yêu thương, bà cảm thấy nỗi đau đớn của cháu cũng sâu sắc như chính đau đớn của mình.
"Cháu lại đây, ngồi xuống. Bà muốn nói chuyện với cháu, cháu thân yêu", Emma nói nhẹ nhàng.
Paula quay nhanh người lại, đôi mắt sẫm trông như màu xanh nước biển. "Cháu không muốn nói chuyện với bà, ít nhất là không phải về Jim Feli". Cô đứng sững bên cửa sổ, thách thức, oánh trách, giận dữ sục sôi. Người cô run lên, tay nắm vào nhau rồi lại mở ra hết sức kích động. Tại sao bà cô lại có thể vô ý đến thế? Mời Jim Feli đến dùng bữa tối là một điều tàn nhẫn, không đẹp và cô không bao giờ biết bà cô lại là người như thế. Cô quay lưng lại Emma và lại tì trán vào khung cửa sổ, nhìn ra những ngọn cây xanh, nhưng không nhìn thấy gì hết, cô nuốt những dòng lệ ầng ậc trong mắt.
Emma đột nhiên thấy cô trẻ trung, yếu ớt một cách thật đáng thương. Nó là điều duy nhất có giá trị mà ta yêu thương, Emma nghĩ, trái tim bà thắt lại trong yêu thương. "Trong tất cả các đứa cháu của mình, nó là đứa ta yêu quý nhất. Cuộc đời gian khổ khủng khiếp của ta chỉ đáng được đền bù lại vì niềm vui có nó. Đứa con gái này, đứa con gái mạnh mẽ, bất khuất, dũng cảm, trung thành, luôn luôn đặt những ước muốn của ta lên trên hạnh phúc riêng của nó.
"Lại đây, cháu. Bà có chuyện phải nói với cháu".
Paula ngó nhìn Emma mơ màng như đang trong một cơn choáng. Cô miễn cưỡng trở lại bên lò sưởi, đi như một người mộng du, nét mặt trống rỗng. Cô vẫn còn điên khùng nhưng sự run rẩy đã hết. Đôi mắt cô dửng dưng và đờ đẫn như hai viên đá da trời trên khuôn mặt xám màu tro. Cô ngồi thẳng cứng trên ghế, có một cái gì chất chứa không nhượng bộ trong con người cô khiến Emma kinh hoàng, bà biết bà phải nhanh chóng giải thích để cho nét nhìn ấy rời khỏi cháu gái bà mãi mãi. Emma đã lựa chọn một cách gián tiếp để thông báo cho Paula biết là bà đã mời Jim Feli đến ăn tối, bởi vì bà không tự tin ở mình khi nói ra điều đó. Nhưng bây giờ thì bà phải nói. Giải thích. Đưa cô gái ra khỏi nỗi dày vò khủng khiếp.
"Paula, bà đã mời Jim Feli ngày mai, bởi vì anh ta gián tiếp có dính dáng đến những công việc của gia đình ta, bà đã nói với cháu trước đó". Bà ngừng lại hít hơi rồi nói tiếp một cách kiên quyết hơn, nhìn đăm đăm vào mặt Paula: "Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Bà cũng mời anh ta đến cho cháu. Và bà có thể nói thêm là anh ta rất sung sướng nhận lời".
Paula sững sờ, không sao tin nổi. Một nét ửng sẫm nổi lên từ cổ cô làm cô mặt đỏ tía tai, miệng cô bắt đầu run rẩy. "Cháu không hiểu...mời anh ấy đến cho cháu...", cô chếnh choáng và bối rối. Trong lúc kích động, tóc cô tung ra, cô gạt nó sang bên một cách nóng nảy, lắc đầu bàng hoàng: "Bà nói gì hả bà? Bà bao giờ cũng căm ghét nhà Feli cơ mà? Cháu không hiểu?".
Emma cố gắng đứng lên, tới ngồi trên ghế xôpha. Bà cầm lấy bàn tay búp măng đẹp của Paula trong đôi bàn tay nhỏ bé cứng rắn của bà. Bà nhìn Paula, tim thắt lại khi nhìn vào đôi mắt cô, những vùng nhợt nhạt trên khuôn mặt cô đầy những đau đớn. Emma sờ khuôn mặt xanh xao ấy, bà mỉm cười dịu dàng và nói bằng một giọng thì thào khàn khàn: "Bà là một người già nua, Paula ạ. Một bà già ngang ngạnh, chiến đấu từng phân để có được những thứ như bây giờ. Mạnh mẽ, đúng, nhưng cũng mệt mỏi. Cay đắng, có lẽ là như thế. Nhưng bà cũng thu được một số khôn ngoan nào đó trong cuộc đấu tranh của bà với cuộc sống, cuộc đấu tranh để sống còn và hôm nọ bà đã tự hỏi mình tại sao lòng tự hào ngu ngốc của một bà già ngang ngạnh lại cản đường một người mà bà yêu nhất trên đời này. Bà mới thấy là mình ích kỷ, ngu ngốc và để cho những sự việc của 60 năm trước đây che mờ sự phán đoán của mình ngày nay."
"Cháu vẫn không hiểu", Paula lẩm bẩm, con mắt cô lộ sự bối rối.
"Bà đang định nói với cháu là bà không còn phản đối việc cháu gặp Jim Feli nữa. Hôm qua bà đã nói chuyện rất lâu với nó, trong đó bà đã nhận thấy được rằng tình cảm của nó đối với cháu vẫn thế. Và bao giờ nó cũng có những ý định rất nghiêm chỉnh. Trưa hômm nay bà đã nói với nó rằng nếu nó muốn cưới cháu thì không những nó được phép của bà, mà bà còn ban phước cho nó nữa. Bà ban phước cho cả hai con với tất cả tình yêu của bà".
Paula lặng người. Trí óc của cô không nhận những lời của bà nói. Từ nhiều tháng nay, cô đã căn dặn mình không được nghĩ tới Jim và cuối cùng đã thừa nhận rằng không thể có một tương lai gì cho hai người. Cô đã khắt khe với mình, đẩy tất cả mọi xúc động, mọi tình cảm sang bên, dồn nghị lực của mình vào công việc trong một nỗi đau khổ tột cùng. Qua một màn mờ mờ của những dòng nước mắt, cô nhìn thấy khuôn mặt Emma, khuôn mặt cô từng nhìn và từng thương yêu suốt đời mình. Bộ mặt ấy cô tin tưởng. Emma mỉm cười trìu mến chờ đợi, đôi mắt bà thông minh, thông cảm và đầy yêu thương. Nước mắt lặng lẽ rơi trên má Paula, cô lắc đầu: "Cháu không thể tin là bà lại thay đổi ý kiến", cô nói, giọng nghẹn ngào.
"Bà đã thay đổi ý kiến".
Mấy chữ đơn giản ấy được nói lên một cách kiên quyết và chắc chắn cuối cùng đã lọt vào đầu óc đau đớn của Paula, vào trái tim tan nát của cô. Cô bắt đầu thổn thức, cả thân hình cô rung lên, những tình cảm dồn nén đã được cởi bỏ. Cô rũ người về phía trước, với lấy Emma một cách mù loà, bà ôm cô trong tay như một đứa trẻ, vuốt ve mái tóc cô, lẩm bẩm khe khẽ với cô y như bà vẫn từng làm ngày nào khi cô còn bé dại. "Không sao mà. Thôi nín đi con. Bà hứa với con là không sao đâu".
Cuối cùng tiếng nức nở đã lắng đi. Paula ngước lên nhìn Emma, nụ cười run rẩy trên mặt nàng. Emma lấy tay lau nước mắt cho nàng, nhìn nàng chăm chú và nói: "Bà không bao giờ muốn thấy con bất hạnh nữa chừng nào bà còn sống. Bà đã có đủ nỗi bất hạnh cho cả hai chúng ta rồi".
"Cháu không còn biết nói thế nào. Cháu tê dại. Cháu không thể nào tin được điều ấy", Paula trả lời lặng lẽ. "Jim. Jim ơi!".
Emma gật đầu: "Bà biết tình cảm của cháu", bà nói, đôi mắt mệt mỏi của bà sáng lên. "Nào, sao bây giờ cháu không giúp bà một việc, đi gọi Jim đi nào. Nó vẫn còn ở chỗ toà báo đấy. Sự thật là nó đang đợi cháu. Nếu cháu muốn thì mời nó đến ăn cơm tối nay. Hay là tốt hơn nữa hãy lái xe đi Lidơ, ăn bữa tối với nó. Bà đã có Emilie và Sarah đer nói chuyện rồi, và có lẽ Alexandre và những người khác cũng tới kịp để ăn bữa tối". Bà cưới nói, đôi mắt bà long lanh. "Bà còn có các cháu khác mà, cháu biết đó". Paula ôm và hôn bà, rồi cô đi, bay ra khỏi phòng không nói thêm một lời nào nữa.
Cánh chắp cho đôi chân con bé, Emma nghĩ, để đi tới chỗ người yêu. Bà ngồi một lúc trên xôpha, đầu óc ngổn ngang những ý nghĩ về Paula, Jim và biết bao nhiêu điều khác. Rồi bà bất chợt đứng lên, đột ngột đi về phía cửa sổ, duỗi chân tay đã cứng lại của mình, lấy tay vuốt nếp áo, sửa lại mái tóc. Bà mở cánh cửa sổ bọc chì và nhìn ra ngoài.
Phía dưới, ở trong vườn, các cây cối lung linh trong không khí buổi chiều dịu mát, mọi thứ đều xanh sẫm và lặng ngắt như tờ. Không một ngọn cỏ, không một chiếc lá nào lay động, chim muông cũng im tiếng hót. Bà có thể thấy những bông thủy tiên nhanh chóng bạc mất màu sắc rực rỡ, nhợt đi thành màu trắng khi mặt trời đã lặn và những hàng rào cây tạo hình dần dần ngả màu đen. Bà đứng đó thật lâu trong buổi chạng vạng, nhìn hoàng hôn dần xuống khi ánh sáng pha lê ở phương Bắc nhạt phai phía sau dãy đồi thấp ở chân trời. Sương mù bềnh bồng trôi vào trong vườn, bọc lấy tất cả mọi thứ trong một tấm khăn san hơi nước màu trắng đục đột ngột dâng lên, làm tối lại những hàng cây, những bụi cỏ và hàng hiên cổ, cho đến khi tất cả những hình ảnh ấy hoà lại cùng nhau.
Emma run run khép cửa sổ lại, quay trở vào cái ấm áp và tiện nghi của căn phòng. Bà bước qua tấm thảm, cầm que cời lửa và thêm những khúc củi vào lò sưởi để tạo nên ngọn lửa reo vang mà bà ưa thích.
Bà ngồi bên lò sưởi nhìn vào ngọn lửa, hài lòng và yên ổn, những kỷ niệm đã quên lãng của tuổi trẻ ùa vào tâm trí bà trong khi bà chờ đợi những đứa cháu khác tới. Bà nghĩ đến gia đình Feli. Bọn họ giờ đây tất cả đã ra đi, chỉ trừ James Arthur Feli, người cuối cùng trong dòng họ. "Tại sao nó cần phải đau khổ, cả Paula nữa vì những sai lầm của một thế hệ đã chết?", bà tự hỏi mình rồi nghĩ: "Mình làm như thế là phải. Đó là món quà tặng của ta cho con nhỏ. Cho cả hai đứa chúng nó". Bên ngoài, trời tối hơn và trong căn phòng mờ mờ, ánh sáng lò sưởi hắt những chiếc bóng kỳ lạ và huyền bí, qua những bức tường, trần nhà và trong những bóng tối ấy, bà thấy nhiều bộ mặt xưa cũ quen thuộc. Bạn của bà. Kẻ thù của bà. Tất cả bọn họ đều đã chết từ lâu. Những bóng ma...chỉ là những bóng ma không thể nào sờ được vào bà. Cuộc sống như một vòng tròn, bà suy tư. Cuộc đời của ta bắt đầu với gia đình nhà Feli và nó sẽ kết thúc với họ. Hai điểm ấy bây giờ đã tiếp nối và làm thành một vòng tròn.