PHẦN THỨ NHẤT: THUNG LŨNG
Chương 5

"Mẹ...mẹ ơi, mẹ tỉnh ngủ chưa?", Emma gọi khe khẽ từ ngoài cửa. Không có tiếng trả lời.
Cô đi dò dẫm gần cửa, tai căng ra để nghe từng âm thanh nhỏ nhất, nhưng căn phòng yên lặng như một nấm mồ. Cô run run kéo chiếc khăn voan mỏng quanh đôi vai mảnh dẻ, run lên trong chiếc áo ngủ mỏng trước cái lạnh buốt da thịt trước lúc bình minh.
"Mẹ, mẹ ơi'''', cô gọi trong tiếng thì thào thôi thúc và bò gần hơn vào trong phòng, nhích một cách cẩn thận, dò dẫm loanh quanh giữa những đồ đạc rẻ tiền, mắt vẫn chưa quen với bóng tối. Cô hầu như không thở nổi, mùi không khí thật là tanh tưởi. Cô rùng mình, thoáng khó chịu vì mùi tường mốc, khăn trải giường bẩn và mồ hôi kết lại. Rõ ràng đó là mùi của nghèo khó, bệnh tật. Cô nín hơn và bước lên. Khi đến bên chiếc giường sắt, trái tim cô như ngừng đập khi nhìn xuống người đàn bà ốm nằm bất động dưới đống chăn mền lộn xộn. Mẹ cô đang hấp hối. Có lẽ là đã chết rồi? Sự hốt hoảng sợ hãi làm rung tấm thân gầy bé, cô run lên không sao kiềm chế nổi. Cô cúi xuống, áp mặt mình vào thân thể mẹ cô, ráng sức về phía cái hình hài mỏng manh đó y như để truyền cho nó một sức mạnh mới, một sức sống mới. Cô nhắm nghiền mắt lại, đọc thầm một bài kinh cầu, cuồng nhiệt và van lơn, tất cả sức tập trung của cô dồn cả vào đó.
Rồi cô mở mắt và bắt đầu vuốt ve nhẹ nhàng cái trán hầm hập của mẹ. Trong ánh sáng lung linh của một ngọn nến nhỏ xíu, nét mặt người đàn bà vốn đã xanh xao bây giờ chỉ là một cái bóng màu xám tro và những giọt mồ hôi lóng lánh tạo thành một màn ma quái trong ánh sáng yếu ớt. Mái tóc nâu một thời dày và óng mượt, bây giờ trở thành những mớ rối bù vắt qua cái trán ẩm mồ hôi, xoã tung trên nét mặt mà cái đau đớn và sự khổ sở cũng không hoàn toàn xoá đi được những dấu vết của vẻ đẹp dịu dàng thời thiếu nữ, đã bị tan tác đi vì sự tàn phá của nghèo khổ, cùng cực bởi những năm vật lộn để sống còn và cuối cùng bởi bệnh tật tàn khốc chết người này. Bà mới chưa đầy 34 tuổi.
Căn phòng của bà là phòng của người ốm, bởi vì nó chứa đựng rất ít những thứ tiện nghi còn đẹp đẽ, không một chút thú vui nào của cuộc đời. Giường là thứ đồ đạc lớn nhất và chiếm gần hết chỗ dưới mái chìa dốc, nhưng nó không được chăm nom cẩn thận vì Emma chỉ có thể thay khăn trải giường một tuần một lần khi cô từ Feli Hôn, nơi cô làm việc, trở về.
Elisabeth cựa quậy không thoải mái. "Có phải Emma đấy không?", giọng nói bà yếu ớt vì quá mệt mỏi và hầu như không nghe thấy được.
"Vâng mẹ ơi, con đây", cô gái kêu lên và nắm lấy tay mẹ.
"Mấy giờ rồi con?"
"4h mẹ ạ. Con xin lỗi đã làm mẹ thức giấc nhưng con muốn biết chắc là mẹ không sao trước khi con đi Hôn"
Elisabeth thở dài: "Ờ, con ạ, mẹ cũng không ốm lắm đâu. Đừng cuống lên như thế, lát nữa mẹ sẽ dậy, và...", bà bắt đầu ho dữ dội, đưa bàn tay gầy guộc lên ngực cố giữ cơn ho làm rung động toàn thân. Emma rót thuốc vào chiếc bình trên bàn, vòng tay qua người mẹ đỡ bà lên để bà có thể uống từ bình. Dần dần tiếng khò khè ương bướng trong ngực mẹ cô giảm dần di và cuối cùng, dù bị hút hơi vì gắng sức nhưng bà cũng có thể nói được.
"Tốt hơn hết là con nên xuống xem ba con và mọi người thế nào, con yêu. Mẹ sẽ nghỉ một chút và có lẽ trước khi con đi làm, con nên cho mẹ chút trà". Cơn sốt trong ánh mắt bà dịu đi, dà dường như nhận thức được những cái chung quanh mình, thấy được rõ hơn người con gái đứng bên giường.
Emma cúi xuống hôn má nhăn nheo của mẹ một cách trìu mến, kéo mền đắp lên vai bà một cách sẽ sàng: "Vâng, con sẽ mang lên". Cô nhẹ nhàng ra khỏi phòng, chạy lao xuống cầu thang đá hẹp. Những tiếng nói oang oang cao giọng cất lên đập vào tai cô giữa lưng chừng cầu thang. Emma đứng sững lại, hít hơi thật mạnh, tim cô như rụng xuống. Winston, anh trai cô, và ba cô lại đang cãi nhau và sự hung bạo của họ đã quá rõ qua giọng nói. Cái ý nghĩ họ có thể làm phiền tới mẹ làm Emma lạnh toát người. Cô nén cái tiếng hét kinh hãi thốt lên nửa chừng, lấy đôi bàn tay ráp bịt miệng và ngồi một cách nặng nề xuống những bậc đá lạnh.
"Đồ điên rồ", Emma nói to. "Những người lớn hành động như những đứa trẻ, họ quá ích kỷ không nghĩ tới người mẹ khốn khổ của mình". Ý nghĩ này làm cô kích động, cô nhảy lên, sự nôn nao ốm yếu được thay thế bằng nỗi căm giận lạnh lùng ngày môt tăng. Cô đẩy cửa bếp, đứng sững thẳng người ở bậc cửa, tay nắm chặt lấy khung cửa, mắt ánh lên màu đá.
Giăc Hactơ là một người đàn ông to lớn. Không đi ủng, chỉ với đôi chân đi tất, ông cao 6 fut 2 (mỗi fut = 0.3048m), người thẳng băng. Ông đứng cao vượt lên đứa con trai cả Winston của mình, nắm đấm giơ cao giận dữ và sẵn sàng giáng xuống thật mạnh. Khuôn mặt ông toát lên sự giận dữ của núi lửa, mắt loé lên một cách nguy hiểm. "Mày không có vào thuỷ quân gì hết, đây là lần cuối cùng tao nghe mày nói về chuyện ấy trong cái nhà này. Mày còn chưa đến tuổi và đừng hòng mày được phép của tao. Bây giờ hãy bỏ chuyện ấy đi và đừng bao giờ nhắc tới nữa, ông cả Winston của chúng tôi ạ, nếu không thì ông sẽ thấy tôi quật ngang lưng ông đó. Ông chưa đủ tuổi để mà bỏ trốn đi đâu, ông cả ạ. Và chớ có quên điều đó".
Winston trừng mắt nhìn cha, bộ mặt đẹp trai ửng lên và nhăn nhúm lại vì giận dữ điên khùng, đôi mắt xanh của cậu lạnh băng: "Nếu con muốn đi, con sẽ đi. Ba không thể cản được con nếu con muốn bỏ đi, mà thế nào con cũng bỏ đi, khỏi cái lỗ bị Chúa quên lãng này. Ở đây bây giờ chỉ có nghèo khổ khốn cùng và hấp hối".
"Con khỉ, mày cãi lại tao hử? Để rồi xem".
Cậu con trai không nhúc nhích trong một giây, rồi cơn giận bung ra trong đầu, cậu bước lên, giơ cánh tay như định đánh cha. Nhưng qua màn sương choáng váng của cơn giận mù quáng, cậu nhìn thấy một cái gì đe doạ trong đôi mắt ấy, cầu lùi lại, hoang mang kinh sợ vì sức mạnh của cha mình.Mặc dù không cao và lực lưỡng như bố, nhưng Winston vóc người cân đối, khoẻ mạnh, cậu được tạo nên bởi một chất liệu thanh tú hơn, giống mẹ của cậu hơn.Cậu bé 15 tuổi ngày càng nhận thấy vẻ ưa nhìn của mình và cậu biết đó là tài sản lớn nhất của cậu.
"Cậu cả Winston, cậu đừng tưởng là tao không biết điều đó. Tao sẽ dạy mày cách giơ tay đánh tao. Tao sẽ cho mày một trận để nhớ đời, mà đời mày thì dài đấy", ông bố vừa nói vừa bắt đầu cởi thắt lưng da, rút nó một cách vội vàng trong lúc nóng nảy và quấn nó quanh bàn tay phải, rồi tiến về phía cậu con trai một cách hăm doạ với một sức mạnh ghê gớm.
"A, ba không doạ được con đâu", Winston kêu lên, nhưng lại lùi lại phía sau bàn đứng, để chiếc bàn ngăn cách an toàn giữa hai người. "Ba không dám đánh tôi đâu. Mẹ tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho ba nếu ba quật cái dây ấy vào người tôi", cậu cảnh cáo.
Giăc Hactơ dường như không nghe thấy những lời đó. Ông tiến lên nhanh nhẹn và khéo léo, chiếc thắt lưng da đen đung đưa một cách ghê sợ trong bàn tay nắm chặt. Ông giơ cánh tay lên, và hẳn là đã giáng xuống cậu bé nếu như Emma không chạy băng qua phòng đúng lúc và nhảy chồm lên trươc mặt cha mình. Cô nắm lấy cánh tay ông, dùng hết sức mạnh của đôi tay giữ lại. Khuôn mặt cô hốc hác đi trong ánh lửa và cô run hết cả người vì giận dữ. Cô đứng trước mặt cha không hề nao núng. Cô là người duy nhất dám thách thức ông, người có can đảm đương đầu với ông. Và cô thường làm dịu được cơn giận dữ của ông, làm ông nhu mì trở lại.
Mặc dù giọng nói của cô lặng lẽ nhưng có sức mạnh trong từng từ: "Yên đi, ba. Ba làm sao thế? Hò hét, chửi bới vào cái giờ này trong khi mẹ đang nằm ốm nặng trên gác. Đáng lẽ ba phải biết hơn ai hết chứ. Ba phải tự xấu hổ chứ. Thôi hãy ngồi xuống mà uống trà đi không thì chính con sẽ bỏ đi đấy, và lúc đó thì tất cả sẽ tan tác đi phương nào, hả?" Cô giữ chặt cánh tay giơ lên của cha, dỗ dành bằng một giọng nhẹ nhàng hơn: "Nào, ba, đừng ương bướng nữa. Winston của chúng ta sẽ không trốn vào thuỷ quân đâu. Anh ấy nói khoác đấy thôi".
"Cô Bôxi Nichcơ, cô nghĩ vậy sao?", Winston nói chen vào một cách giận dữ từ góc phòng bên kia. "Lần đầu tiên trong cuộc đời ngắn ngủi của cô, cô đã lầm, Emma ạ. Tôi nói thật đấy, phải, nói thật đấy".
Emma quay lại, đối diện với anh cô, cô gắng để tự kiềm chế: "Thôi đi Winston" - cô rít lên- "Anh sẽ giết chết mẹ. Mẹ đang ốm nặng. Và hãy ngừng cái câu chuyện ngu xuẩn vào thuỷ quân đi. Ba nói đúng đấy, anh còn quá trẻ. Và anh sẽ làm tan nát trái tim mẹ nếu anh bỏ đi. Vì thế mà thôi đi, thôi ngay".
Đôi mắt Winston loé lên bực bội và một sự thù hận xa lạ. "Cô Bôxi Nichcơ, cô làm tôi phát ốm. Lúc nào cũng chen ngang vào. Cô hãy lo lấy việc của cô, bây giờ cô chỉ là một cô bé con, cô biết cái gì, Emma Hactơ?"
Có một sự nanh nọc trong giọng nói của cậu, nhưng cậu lùi lại dưới cái nhìn như xoáy và ánh mắt đầy lạnh lùng của cô. Dáng vẻ cô là dáng vẻ lãnh đạm, cô cố tình quay lưng lại cậu. Winston có một nhận thức mơ hồ là cậu sợ em gái mình. Không giống sự sợ hãi với sức mạnh của cha cậu, nhưng ở một cách hoàn toàn khác mà cậu không thể hiểu nổi. Như để làm sai lạc tình cảm của mình, cậu hít hơi và kêu to: "Bà cụ non quá đấy, Emma Hactơ. Cô là như thế đó".
Emma phớt lờ sự cáu giận cuối cùng này, mím chặt môi, buộc mình không trả lời. Ông Giắc mơ hồ cảm thấy sự trao đổi hung hăng giữa hai người con lớn, ông đã để vài giây cho nguôi cơn giận. Giờ đây, ông chậm chạp quay cái đầu như sư tử ngắm nhìn con trai với một sự chăm chú soi mói: "Thế là đủ rồi, Winston. Để yên em gái mày đấy, hôm nay mày đã gây nhiều rắc rối rồi và tao sẽ không quên điều đó trong một thời gian rất dài đấy".
"Nó cứ luôn luôn dính mũi vào công việc của con", Winston nói nhưng ngừng ngay lại khi nhìn thấy cơn tức giận trong đôi mắt cha. Ông Giăc cựa quậy bồn chồn trong bàn tay nắm đã lỏng dần của Emma, và Winston biết quá rõ là không nên chọc tức ông them nữa. Cậu lén nhẹ nhàng như một con mèo tới cuối bếp, nơi Frank cậu em trai út đang rúm người lại vì sợ hãi, và rền rĩ trong buổi va chạm giữa cha và anh.
Emma quay sang phía ba cô, nắm cánh tay ông và nói nhẹ nhàng: "Nào, ba ngồi xuống đi". Trong một lúc, Giắc Hactơ không chịu theo cái áp lực kiên quyết nhưng nhẹ nhàng của đôi tay cô con gái trên thân thể cuồn cuộn cơ bắp của ông. Ông cúi nhìn con gái, thấy nó gầy quá, ông biết thoát khỏi vòng tay nắm giữ của nó mới dễ làm sao, chỉ cần hất cổ tay một cái là ông có thể hất cái thân thể mỏng manh của cô bay sang bên kia phòng. Nhưng ông không bao giờ đánh Emma, và sẽ không bao giờ đánh cô. Ông buông lỏng người và cho phép cô dìu ông vào ghế. Ông nhìn vào khuôn mặt xanh xao ấy thường thường rất trang nghiêm và suy tư, vẫn còn méo mó đi vì buồn phiền. Ông xúc động. Tất cả các con cái ông, chỉ có mỗi Emma mới làm ông xúc động được. Và trong khi ngắm con gái, người con duy nhất dám thách thức ông, Giăc lớn bỗng nhận thức một cách rõ ràng ông đang đương đầu với một ý chí không thể lay chuyển được. Một ý chí đúc bằng sắt thật là đáng sợ. Cái dáng vẻ nhỏ bé bất khuất ấy làm ông xúc động, xen lẫn tự hào và sợ hãi. Ông tự hào về sức mạnh của Emma và cũng thấy lo sợ thay cho cô vì cái sức mạnh ấy, nó sẽ đẩy cô vào tình thế khó khăn một ngày nào đó, điều ấy ông hoàn toàn chắc. Cô có một tinh thần độc lập, và trong cái thế giới của họ không có chỗ cho những tinh thần độc lập. Giai cấp của họ không thể tránh khỏi bị dẫm lên bởi gót giày những ông chủ. Ý chí hung bạo của Emma sẽ bị bẻ gãy và ông lo sợ cho cái ngày đó. Ông cầu nguyện mình sẽ không có mặt để chứng kiến cái cảnh đó, bởi vì nó sẽ làm con tim ông tan nát cũng như trái tim con ông tan nát.
Khi ông tiếp tục nhìn con gái mình, ông thấy nó một cách rõ ràng lần đầu tiên trong nhiều năm. Ông thấy cái thân thể thiếu ăn của nó, cái cổ gầy, đôi vai khẳng khiu dưới chiếc áo ngủ nhỏ bé nhàu nát. Nhưng ông cũng nhìn thấy một điều khác. Ông thấy cái trong suốt của làn da trắng như tuyết còn đọng lại trên những mỏm đá cao nhất. Ông nhìn thấy đôi mắt long lanh đầy ánh lửa màu ngọc lục bảo giống hệt đôi mắt ông. Ông thấy mái tóc dày màu nâu đỏ hất cao trên vầng trán kiêu kỳ, ông thấy trong thân hình trẻ con chưa nảy nở sự bắt đầu của vẻ đẹp. Nhưng không biết có bao giờ vẻ đẹp ấy nở hoa không? Trái tim ông nhức nhối và hình như rung chuyển với cơn đau không thể chịu nổi, và tràn đầy một nỗi căm giận và đau buồn sâu xa khi ông nghĩ tới cuộc sống lao dịch phía trước. Bây giờ nó đã là kẻ lao dịch, ở đây và ở Feli Hôn, mà nó thì còn nhỏ thế.
Giọng nói của con gái nhẹ nhàng đưa ông ra khỏi dòng suy nghĩ: "Ba ơi, ba thấy trong người thế nào?
"Ba không sao hết, con gái ạ. Con đã thăm mẹ chưa? Mẹ con thế nào?"
"Mẹ hơi mệt một chút trước khi con đến, nhưng bây giờ mẹ đang nghỉ. Lát nữa con sẽ mang lên cho mẹ một ít trà"
Cô bắt đầu đi chỗ khác, ông mỉm cười với cô, hàm răng trắng loá lên, mắt âu yếm, nhưng cô không đáp lại một cách trìu mến thường lệ như ông mong đợi. Cô chỉ vỗ vỗ vào cánh tay ông, nhìn ông thật lâu, và ông cảm thấy như bị trách móc và xấu hổ vì chính con gái ông, như thể ông là con gái và cô là phụ huynh. Và điều ấy làm ông phiền lòng ghê gớm vì Emma là con gái cưng của ông, ông hiểu cô có một tình yêu sâu sắc nhất đối với mình. Ông không muốn hình ảnh của mình xấu đi trong mắt cô, sự quý trọng của cô là rất cần thiết. Một cách máy móc, ông nhấc đôi ủng của mình khỏi lò. Đã bắt đầu muộn và ông sẽ phải tới lò gạch Feli nơi ông và Winston làm việc, mắt cả một tiếng đồng hồ mới đi bộ đến đó được.
Emma đi ngang qua bếp với một nghị lực và một mục đích mới. Cô muốn xua tan cái không khí này, đưa mọi việc trở lại bình thường. Cô nhìn Frank ngồi bên bộ đồ trà, cậu lại bình tĩnh trở lại và hết sức chăm chú chuẩn bị bánh sandwich cho bữa trưa và bữa nghỉ uống trà mà họ sẽ mang đi làm. Cô vội tới giúp em, xắn tay áo lên vẻ xăm xắn.
"Frank, em đang làm gì thế?", cô kêu lên và mắt mở to ngạc nhiên, đầu lắc lư. "Gạt mỡ thịt quay kiểu gì như là sẽ không có ngày mai nữa''". Cô cầm lấy con dao từ tay cậu bé đang giật mình, tặc lưỡi vẻ bực bội, cô bắt đầu vét bớt một ít bơ khỏi bánh mì. Những chỗ vét lại, cô cho một cách tiết kiệm vào chiếc lọ đá nâu để trên cái thớt gỗ: "Chúng ta chưa phải tầng lớp quý tộc nhỏ đâu Frank ạ", cô nói tiếp và khéo léo làm nốt những chiếc bánh.
Frank lùi lại, môi dưới run run, đôi mắt hạt dẻ của cậu long lanh những giọt nóng bỏng, khuôn mặt nhỏ bé của cậu dúm dó và sợ hãi. Frank 12 tuổi và bé nhỏ. Cậu có một mái tóc vàng hoe mềm như lông tơ vịt, nước da màu sữa, nét mặt dịu dàng đẹp như con gái. Cậu lấy làm hổ thẹn về cái bề ngoài dịu dàng của mình, đã làm cậu có những biệt danh như "Sissy, Nancy", ở nhà máy Feli, nơi cậu mót chỉ. Do sự huấn luyện thành thạo của Winston, cậu đã học cách đánh lại bằng nắm đấm, nhưng cậu thích bỏ đi, mặc những lời chế giễu, nhạo báng, đầu ngẩng cao, cậu phớt lờ tất. Đó là cung cách cậu áp dụng trong suốt cuộc đời, lúc nào cũng nhạy cảm và dễ chạm tự ái nhưng có khả năng nhẫn nhục một cách tự hào và khinh miệt.
Mớ tóc vàng xoã xuống mặt, cậu e dè gạt nó sang bên, quay lại phía Winston một cách tội nghiệp: "Em không có ý phá hại gì, anh Winston", cậu nói và nước mắt rơi xuống cặp má lốm đốm tàn nhang".
Winston biết rằng cái chặc lưỡi càu nhàu của Emma về mỡ rán là vô hại. Cậu kéo Frank lại gần, ôm lấy nó một cách an ủi trong vòng tay mình, giấu một nụ cười và nói: "Anh không bao giờ nghĩ rằng mình lại sống tới cái ngày mà Emma của chúng ta trở thành một cái tóp mỡ. Anh nghĩ vài cái thói quen của cụ nhà Feli đã thấm vào Emma của chúng ta". Cậu nói một cách hiền lành, tất cả sự thù hận đã biến khỏi mắt cậu.
Emma đi lại như con thoi trước mặt họ, má cô ửng hồng trong ánh lửa từ lò sưởi bừng lên và làm cho tóc cô đầy một ánh sáng vàng rực. Cô hơ con dao trước mặt: "Nói như thế không được. Tôi không phải là tóp mỡ. Có phải con là như thế không, ba?", cô cầu cứu và lại tất tả chạy đi trước khi ông kịp trả lời. "Thì, ông cụ Feli giàu đến nỗi chân đi vòng kiềng vì những đồ đồng, và có biết vì sao không? Bởi vì ông cụ không bẻ một quả lý làm đôi và cho con một nửa. Thế đó". Cô nói một cách sôi nổi, mặc dù không giận dữ, và một vẻ bối rối hiện trên nét mặt ửng hồng của cô. Winston biết sự trêu ghẹo của cậu đã trúng đích, vì Emma căm ghét sự keo kiệt và đây là sự buộc tội tệ hại nhất mà người ta có thể gán cho cô, dù là nói đùa chăng nữa.
Hất đầu một cách bực tức, cô nói cau có: "Cái mỡ đó dày đến 2 inch. Không thể ăn bánh sandwich như vậy được. Ăn như thế thì ốm mất. Nhất định ốm mất".
Winston bắt đầu cười, không thể kìm được sự vui thú của mình lâu hơn được nữa. Ông Giăc giật mình liếc nhìn cậu, đôi lông mày đen rậm nhíu lại khi nhìn cậu con trai một cách bí ẩn. Nhưng ông thấy ngay là tiếng cười của cậu không hề có ác ý khi ông cũng thấy Emma ngày càng bối rối. Khi ông nhìn từ cậu con trai này sang cậu khác, sự vui vẻ của các cậu bé lây sang ông. Ông bắt đầu cười khùng khục và vỗ đùi.
Emma trợn mắt nhìn họ và dần dần một nụ cười rụt rè lan ra trên khuôn mặt cô. Chính cô cũng cười. "Thật là rùm beng cả lên vì chuyện mỡ", cô lẩm bẩm qua tiếng cười, lắc đầu và đặt con dao xuống. Frank ngỡ ngàng nhìn mọi người, lắc đầu không hiểu và khi cậu nhận ra sự vui vẻ của họ là thật, cậu cũng cười, lau nước mắt bằng vạt áo sơ-mi xám. Emma ôm lấy em:" Đừng để tâm nhiều như vậy, Frank em. Chị không có ý gì đâu, em yêu quý ngốc nghếch ạ. Và đừng có lấy vạt áo mà chùi mũi", cô mắng yêu em và vuốt tóc, hôn lên trán cậu một cách âu yếm.
Không khí thân mật và tình yêu thương gia đình đã được lập lại một cách thần kỳ. Emma thở dài nhẹ nhõm và lại lăng xăng dọn dẹp. Cô sờ vào bình trà. Hãy còn nóng. "Frank này, em mang hộ chị trà lên cho mẹ", cô nói và rót trà vào trong bình, cho thêm vào rất nhiều đường và sữa. "Ba xem hộ lửa cho con, ba nhé. Ba cứ tiếp lửa đợi đến khi dì Lily tới. Winston, anh hãy rửa những chiếc ấm cho em trong khi em chữa lại bánh xe cho anh. Ba nhớ đừng quên trông lửa nhé".
Cô đưa bình trà cho Frank: "Em hỏi mẹ xem mẹ có ăn bánh và mứt không. Em nhanh lên nhé, còn bao nhiêu việc phải làm trước khi chị đi Hon". Frank cầm bình trà cẩn thận trong cả hai tay và vội vã đi qua phòng. Winston thu lượm những chiếc bình và đĩa bẩn trên bàn, đem chúng vào chậu rửa trong khi ông Giăc quay sang lò sưởi và xếp lại những khúc củi. Emma cười một mình. Hoà bình đã được lập lại. Cô bước về phía chảo và bắt đầu gói những chiếc bánh vào chiếc khăn ăn bông mà mẹ cô đã viền một cách cẩn thận, thấm nước vào khăn để cho bánh khỏi bị khô.
Ông Giăc nhìn Emma đang đứng bên chảo, hộp trà cầm trong tay ước lượng trà và đường cho họ, gói vào những mảnh giấy nhỏ, buộc hai đầu lại với nhau một cách chắc chắn để không bị rơi vãi một chút nào hết. "Con sẽ bị chết cóng trong cái áo ngủ mỏng manh ấy, Emma ạ, mà cái khăn ấy thì chẳng ấm áp gì đâu. Con mặc ấm vào, ở dưới này bây giờ mọi chuyện đã ngăn nắp đâu vào đấy rồi".
"Vâng, con sẽ mặc, ba ạ. Con sắp đóng gói xong trà đường cho ba đây". Cô nói và nở một nụ cười rạng rỡ làm sáng ngời cả khuôn mặt nghiêm trang của cô. Đôi mắt cô, vốn sâu và xanh một cách linh động, sáng lên, lóng lánh. Cô chạy qua bếp tới chỗ cha. Ông cúi xuống mỉm cười với cô và hiểu rằng tình yêu thương của cô với ông vẫn còn nguyên vẹn. Emma kiễng chân lên, vòng đôi cánh tay gầy vào cổ ông. Cô kéo mặt ông xuống và hôn lên má ông: "Thứ 7 tới con lại gặp ba, ba nhé". Ông Giắc giữ cô lại một lúc, đôi cánh tay gân guốc của ông vòng quanh cô, che chở, một niềm âu yếm tràn ngập: "Ừ con, và hãy giữ sức khoẻ ở trên Hon đó nhé". Ông lẩm bẩm, giọng nghẹt đi. Cô đã đi trước khi ông kịp lấy lại hơi thở, lướt qua phòng như một tia chớp. Ông còn lại một mình trong bếp.
Ông thở dài, với lấy chiếc áo trên mắc sau cánh cửa. Ông lần tìm trong túi những sợi dây da nhỏ, buộc quanh gấu quần để ngăn những bụi gạch bốc lên chân. Ông ngồi xuống bàn, thắt chúng lại, vừa làm vừa tự hỏi không biết có nên nói cho Elisabeth biết là ông đã xin thôi việc ở nhà máy gạch không. Ông cau mặt, đôi bàn tay khéo léo thít những chiếc nịt lại. Đây là một quyết định khó khăn đối với ông, bởi vì công việc khan hiếm và nhiều người đang thất nghiệp. Ông không phản đối công việc nặng nhọc, nhưng ông đã nói với Stan, trưởng kíp vào thứ 6 tuần trước: 18 shilling và 10 xu, chẳng có gì là nhiều để đem về nhà vào cuối tuần, Stan ạ. Mà tôi thì là một người đã có vợ và ba con. Tôi không trách móc ai về các con tôi, ngoài chính tôi, anh ạ, nhưng cái ông lão Feli trả cho những đồng lương chết đói. Đúng là như vậy đó, Stan ạ, mà anh cũng biết". Ông nói, hăm hở nhưng lặng lẽ
Stan lắc đầu, và mặc dù ông ta đã tỏ ra thiện cảm, ông cũng không thể gặp cái nhìn chằm chằm của Giăc. "Đúng đó, anh bạn. Đó là một tội ác chứ còn gì nữa. Nhưng có những kíp trưởng chỉ được 20 shilling một tuần thôi. Tôi cũng không được nhiều hơn. Tôi vẫn xoay xở được. Thôi, tuỳ cậu muốn làm gì thì làm, thôi thì thôi". Ông đã nói với Stan là ông sẽ thôi và ông miễn cưỡng đến nhà máy Feli vào sáng thứ bảy, mũ cầm trong tay, cố nuốt lòng tự hào của mình. Ông đã gặp người đốc công, bạn từ thở thơ ấu, người đã ký hợp đồng để ông bắt đầu làm việc trong một tuần với tiền lương 20 shilling một tuần, tuy không được nhiều lắm nhưng cũng khá hơn. Ông suy nghĩ em có nên nói với vợ chuyện này không, và ông đột ngột quyết định là không. Bà biết ông ghét công việc ở nhà máy và như vậy chỉ làm bà buồn thêm, bệnh nặng thêm.
Đồng hồ nhà thờ trong làng điểm 5 tiếng, ông đứng bật dậy, sải bước qua phòng nhẹ nhàng như dáng đi của tất cả những người đàn ông cao lớn. Ông lên phòng vợ.
Emma đã mặc quần áo đàng hoàng, đang đứng cùng Winston và Frank bên cạnh giường. Chúng như một bộ ba bé nhỏ thiểu não trong những bộ quần áo xám, cũ đã vá mạng. Những quần áo của chúng gọn ghẽ và sạch bong, với những khuôn mặt được kỳ rửa kỹ lưỡng, tóc chải thật cẩn thận. Và mỗi đứa trẻ, bề ngoài khác hẳn nhau, đều có một vẻ tao nhã nổi bật lên trên, đến độ những áo quần sờn rách trở nên vô nghĩa. Chúng toát lên một tư thế kỳ lạ khi chúng đứng đó với nét mặt trang nghiêm và lặng lẽ. Những đứa trẻ tách ra, lùi lại lấy lối cho Giăc khi ông bước vào phòng, đầy nghị lực, một nụ cười vui vẻ trên môi.
Elisabeth nằm tựa vào đống gối, xanh xao và suy nhược một cách tội nghiệp, nhưng cái nhìn bừng bừng sốt trên mặt bà đã biến mất và bà tỏ ra bình thản hơn. Emma đã rửa mặt cho mẹ, chải tóc và quàng chiếc khăn san xanh quanh vai bà, càng làm tăng thêm màu xanh đôi mắt dễ thương, mớ tóc bà trải ra trên gối như những dải lụa mềm. Không một vệt màu nào làm hoen ố màu trắng của khuôn mặt bà và đối với Giăc, trong ánh nến, nó giống như ngà khắc ông đã từng thấy ở châu Phi, được đẽo gọt sắc nét và thanh tao, gạt được những hình dáng thô lậu. Bà có dáng của một hình tạc thu nhỏ, thanh thoát. Mắt bà bừng lên khi thấy ông, bà duỗi đôi cánh tay gầy yếu ớt về phía ông và khi tới bên giường, ông kéo bà lại, gần như hung dữ áp chặt cái thân thể mỏng manh của bà vào tấm thân khoẻ mạnh cường tráng của ông, như thể không bao giờ để cho bà đi nữa.
"Trông em khỏe lên nhiều lắm, Elisabeth thân yêu", ông nói bằng một giọng nhẹ nhàng như ve vuốt làn không khí. Hầu như không còn nhận ra giọng nói của ông nữa.
"Đúng thế, Giăc ạ", bà công nhận một cách dũng cảm. "Tối nay khi anh đi làm về, em sẽ thức đợi anh. Em sẽ nấu cháo thịt cừu thật ngon cho anh, cả bánh hấp, cả bánh mì mới nướng".
Ông buông bà ra nhẹ nhàng và để lưng bà tựa vào gối. Khi ông nhìn vào bộ mặt hao mòn đi một cách tội nghiệp, ông không nhìn thấy nó như thực trạng lúc này, mà chỉ nhìn thấy người con gái đẹp ông đã từng giữ lại suốt đời mình. Bà nhìn ông với lòng tin và sự thán phục khiến trái tim ông thắt lại vì đau đớn, vì ông chẳng thể làm gì được để cứu bà. Và sự thôi thúc kỳ lạ ấy lại đến với ông, một sự thôi thúc ngày càng mạnh mẽ khiến ông muốn bế bà lên trong đôi tay mình, đưa bà ra khỏi căn buồng nghèo hèn này và cùng bà chạy lên đỉnh đồi hoang, nơi bà vẫn hằng ao ước. Ở đó, trên những vùng đầm lầy, có mỏm đất cao, không khí trong lành khoan khoái và bầu trời là ánh phản chiếu mênh mang của đôi mắt bà. Ông có một cảm giác không thể giải thích được, cái cảm giác huyền bí là trên mỏm ấy, cái căn bệnh này sẽ được cuốn đi khỏi thân thể bà, và bà sẽ được hồi sinh một cách thần diệu.
Nhưng màu oải hương và màn sương khói nhợt nhạt của những ngày mùa hạ dài dặc lúc này đã bị những cơn gió bấc xua tan. Nếu là mùa hạ, ông sẽ đưa bà lên đó. Đỉnh của Thế Giới, như bà vẫn gọi, và ông sẽ nằm xuống một gò thạch nam giữa những cây dương xỉ và những lá việt quất non mềm mại. Họ sẽ ở bên nhau hài lòng trong vách đá Ramxđân cheo leo, được mặt trời sưởi ấm, chỉ có hai người bên nhau ngoài những con chim sẻ và sơn ca vỗ cánh trong ánh sáng vàng mờ mờ. Không thể làm như vậy được lúc này. Mặt đất cứng lại vì sương giá. Tháng Hai vùng đầm lầy thật man dại và hoang vu dưới một bầu trời lạnh lẽo đầy mưa.
"Anh Giăc thân yêu, anh có nghe em nói không? Đêm nay em sẽ thức, chúng mình sẽ cùng ăn bữa tối trước ngọn lửa lò như trước đây, trước khi em ốm". Có một sự hoạt bát mới trong giọng nói của Elisabeth, một sự kích động rõ ràng là do sự có mặt của chồng.
"Em không được rời khỏi giường, em yêu", ông dặn dò với giọng khàn khàn. "Bác sĩ nói em phải nghỉ ngơi hoàn toàn. Lily của chúng ta lát nữa sẽ tới trông nom em và sẽ làm bữa tối cho chúng ta. Em phải hứa với anh là không được làm điều điên rồ. Nào, hứa với anh đi".
"Ôi, anh đừng cuống quýt lên như thế, Giăc Hactơ. Nhưng mà em hứa, nếu điều ấy làm anh vui. Em sẽ ở yên trên giường".
Ông cúi xuống để chỉ mình bà nghe thấy: "Anh yêu em, Elisabeth. Anh yêu em", ông thì thào.
Bà nhìn sâu trong mắt ông và thấy tình yêu phản chiếu rõ trong đó, không hề thay đổi và vĩnh hằng. Và bà nói: "Em cũng yêu anh, anh Giăc, cho đến ngày em chết và cả sau đó nữa".
Ông hôn bà vội vàng, hầu như không dám nhìn bà một lần nữa và khi ông đứng lên khỏi giường, cử động của ông giần giật, không ăn nhập, hình như ông không còn làm chủ được thân thể to lớn của mình nữa. Ông đi qua phòng ngủ rảo ba bước một. "Nào, Winston, hôn mẹ rồi ta đi làm. Chúng ta muộn rồi đó con", ông gọi to giật giọng.
Winston và Frank mỗi người hôn mẹ một cái rồi rời khỏi phòng, đi ra cửa lặng lẽ. Winston không nói một lời nào với Emma từ khi cậu trêu cô trong bếp trước đó, và bây giờ cậu mỉm một nụ cười rất tươi và hồ hởi, nói từ trên đỉnh cầu thang: "Emma, hẹn gặp lại vào thứ Bảy. Tạm biệt em".
Cô vẫy tay và mỉm cười: "Tạm biệt anh Winston", rồi cô nói thêm như một ý nghĩ chợt nảy ra: "Frank, em chuẩn bị đi làm đi. Chị sẽ xuống ngay và ta cùng đi". Frank gật đầu, khuôn mặt xanh xao của cậu nghiêm chỉnh: "Vâng, chị Emma", cậu vừa nói vừa rảo bước xuống những bậc thang theo gót Winston.
Emma ngồi nép bên giường: "Mẹ có cần gì trước khi con đi không, mẹ?"
Elisabeth lắc đầu: "Trà ngon lắm, con ạ. Mẹ chỉ cần có thế thôi cho đến khi dì Lily tới, mà mẹ cũng không thấy đói".
Bà không bao giờ đói hết. Bà khỏi bệnh làm sao được nếu như bà không bao giờ ăn, Emma tự hỏi và nói với một sự vui vẻ cô không hề cảm thấy: "Vâng, nhưng mẹ phải ăn thức ăn dì Lily mang tới. Mẹ phải giữ gìn sức khỏe".
Elisabeth cười yếu ớt: "Ừ, mẹ sẽ giữ gìn sức khỏe"
"Con thổi tắt nến đi nhé", Emma hỏi, cô chuẩn bị đi.
Elisabeth nhìn con âu yếm: "Ừ, khi nào con đi thì thổi tắt đi. Mẹ sẽ nghỉ một chút. Con ngoan lắm, Emma ạ. Mẹ không hiểu nếu không có con thì mẹ biết làm sao. Thôi bây giờ con đi Hon đi. Bà Turner đã cho phép con về thăm mẹ vào giữa tuần, bà ấy thật tử tế và mẹ không muốn cho con đi muộn".
"Vâng, thưa mẹ", Emma thì thào, cố nuốt nước mắt. Cô hôn mẹ hết sức âu yếm, kéo lại khăn trải giường, vỗ lại những chiếc gối, sắp lại mền khéo léo gọn gàng như thói quen. Khi cô kéo chăn trải giường chung quanh mẹ, cô nói: "Con sẽ cố gắng tìm một cành thạch nam trên đường về vào thứ Bảy mẹ ạ. Có lẽ sẽ còn một ít cành sương giá chưa kịp dập mất dưới vách đá".