Đấy là một bóng ma chăng? Bởiđ ó không thể là con người được! “Sói đồng” và đồng bọn khiếp hãi của hắn tự hỏi mình như vậy. Felim quá sợ hãi cũng hỏi mình như vậy khi hắn còn chưa hoàn toàn lú lẫn đi. Nếu không có chiếc chai thì hắn còn chưa tạm quên đi nỗi khiếp hãi của mình. Và những người đã nhìn thấy kỵ sĩ không đầu - những người cùng đi với ông thiếu tá – Cũng nghĩ như vậy. Cái bóng ma kinh hoàng này hiện ra trước mắt họ vào những giờ sớm hơn cách năm dặm xa hơn về phía Đông. Nó đã hiện ra từ phía Tây: Mặt trời làm mờ mắt họ: họ chỉ phân biệt được hình dáng của nó và không thấy được gì hơn, để làm cho nó giống như Moric-Muxtangher. Felim đã nhìn thấy kỵ sĩ không đầu khi hắn quay lưng về phía mặt trời lặn, gã Iếclăng chú ý thấy nó giống chủ mình mặc dầu anh ta không chắc có thật là chủ mình không. Bốn người Mếchxich, biết rõ Muxtangher, đã nhìn thấy người kỵ sĩ kỳ dị này trong ánh trăng cũng đi đến kết luận như vậy. Felim và những người Mếchxich đã trải qua nỗi khiếp sợ rùng rợn khi nhìn thấy kỵ sĩ không đầu. Mặc dầu những người tham gia tìm kiếm không đến nỗi quá khiếp sợ cái hiện tượng khủng khiếp này, nhưng họ cũng không biết giải thích như thế nào. Trước lúc nó biến mất không một ai trong số họ thử tìm cách giải thích nếu không tính đến những nhận xét khôi hài của một cựu dân ở Tếchdát. - Các ngài nghĩ gì về điều này, thưa các ngài? Viên thiếu tá hướng về những người đồng hành của mình hỏi - phải công nhận rằng tôi không hiểu gì hết. - Một thủ đoạn của bọn da đỏ chăng? Có ai đó giả định – Con mồi để dử chúng ta vào bẫy chăng? - Một con mồi quá tệ, tôi có thể khẳng định như thế - Một người khác nhận xét – Tôi, ít nhất, một con mồi như vậy không nhử được tôi. - Tôi cho rằng bọn da đỏ ở đây chẳng là gì hết – Viên thiếu tá nói – Anh nghĩ thế nào về điều này hở Xpengler? Người dò vết chỉ lắc đầu. - Không lẽ đây là người da đỏ giả trang? – Viên thiếu tá lại hỏi anh ta. - Tôi không biết gì hơn ngài, thưa thiếu tá – Người dò vết trả lời – Có lẽ một cái gì đó na ná như thế. Một trong hai: hoặc là người, hoặc là hình nộm. - Tất nhiên, đó là hình nộm - Một vài người kêu lên với một vẻ nhẹ nhõm trông thấy. - Dù là ai đi chăng nữa, người, quỷ hay là hình nộm, một thành viên trong đội tuyên bố, người đầu tiên đưa ra ý kiến của mình – Tôi không hiểu sao, chúng ta lại không tìm hiểu xem, dấu vết của nó đi đến đâu, tất nhiên nếu như nó để lại những dấu vết. - Chúng ta sẽ biết ngay thôi – Xpengler trả lời - Dấu vết mà chúng ta đang theo cũng hướng tới phía này, có thể lên đường tiếp được chưa, thưa thiếu tá? - Tất nhiên, những thứ vớ vẩn như vậy không thể quấy rầy cuộc tìm kiếm của chúng ta. Tiến lên! Các kỵ sĩ phi về phía trước. Một vài người trong số họ không phải là không dao động. Trong đội có những người quay lui, dường như họ được quyền bất tuân thượng lệnh. Kôlhaun thuộc vào số đó. Khi nhìn thấy kỵ sĩ không đầu, hắn đờ người đi vì sợ hãi, đôi mắt hắn trở nên trong suốt như thủy tinh, môi tái ngắt, hàm dưới trễ xuống, khó khăn lắm hắn mới giữ được khỏi run lên bần bật. Khuôn mặt hắn biến dạng đi vì khiếp đảm, điều đó tất nhiên sẽ làm mọi người chú ý nếu không có nỗi kinh hoàng chung. Nhưng tất thảy mọi người đều không rời mắt nhìn kỵ sĩ không đầu cho đến khi bóng ma kỳ dị kia biến mất. Khi đội ngũ đã lên đường, viên đại úy đi hàng cuối cùng, và không ai để ý đến hắn. Xpengler nói đúng: chỗ người kỵ sĩ bí ẩn hiện ra trong khoảnh khắc lại nằm đúng trên con đường đi của đội ngũ. Nhưng ở đó chẳng thấy một dấu vết nào, dường như thật sự đó là một bóng ma. Nhưng thêm vào đó, điều này lại được giải thích một cách đơn giản. Ở đó, nơi con ngựa quay đi, và còn nhiều dặm tiếp theo, mặt đất bị phủ đầy đá dăm trắng. Những người đi săn thường gọi chỗ này là “đồng cỏ đá phấn”. Đôi chỗ đá bị xê dịch hoặc bị xước – rõ ràng là bởi cá sắt. Tuy vậy chỉ có con mắt của người dò đường dày dạn mới có thể nhận ra những dấu vết như vậy. Dấu vết mà họ tìm kiếm biến mất, dấu vết của con muxtang đã được thuần hóa. Đất còn lại bị đào bới rất nhiều bởi một đàn ngựa hoang đã đi qua đây không lâu, vậy cho nên tìm cho ra một dấu vết nào đó xác định là không thể được. Họ có thể đi tiếp về hướng mà kỵ sĩ không đầu đã đi. Mặt trời cho hay những ngôi sao buổi chiều có thể chỉ đường cho họ. Nhưng họ quan tâm đến người kỵ sĩ trên con muxtang đóng móng hơn. Nửa giờ sau, khi ánh nắng ban ngày tắt, cuộc tìm kiếm uổng công kết thúc. Dấu vết biến vào đồng cỏ đá phấn. Khi mặt trời lặn hẳn, Xpengler nói rằng, không thể làm được gì thêm nữa. Đành phải quay trở lại và đóng trại ở bìa rừng. Họ quyết định cuộc tìm kiếm sẽ lại bắt đầu vào lúc trời sáng. Mặc dầu vậy, họ đã không làm được điều này, ít nhất là vào thời gian đã định. Một tình thế bất ngờ đã cản trở nó. Họ chưa kịp hạ trại thì xuất hiện người đưa thư đem công văn hỏa tốc đến cho ngài thiếu tá. Giấy từ bộ tham mưu Xanh Antôniô de Bakhar thuộc bộ chỉ huy vùng. Nó được gửi tới đồn, và từ đồn được mang tới đây. Thiếu tá ra lệnh đóng yên ngựa, và trước khi mồ hôi kịp khô đi trên những con ngựa mệt lả, các kỵ sĩ đã lại ngồi lên chúng. Công văn hỏa tốc báo cho biết về sự xuất hiện của bộ lạc Komantri ở các vùng thuộc Xanh Antôniô, khoảng năm dặm về phía Bắc sông Lêông. Bây giờ không còn là những cuộc đối thoại vô bổ nữa, mà đã bắt đầu những vụ đốt phá và giết chóc. Viên thiếu tá nhận lệnh, không để mất thời gian, ông tập hợp đội ngũ và gửi ngay họ tới Xanh Antôniô. Điều này giải thích cho sự ra đi vội vã của đội kỵ binh. Tất nhiên, các chủ đồn điền vẫn có thể tiếp tục cuộc tìm kiếm, nhưng tình bạn và thậm chí cả tình phụ tử phải nhường chỗ cho những nhu cầu bức thiết hơn. Họ lên đường chỉ mang theo vũ khí, bởi vì giờ đây cái đói đang đuổi họ trở về nhà. Một vài người ở lại với Xpengler để đi theo vết của con ngựa Mỹ mà theo ý kiến của người dò vết phải dẫn đến phía bên kia con sông Lêông. Những người còn lại về đồn cùng với toán kỵ binh. Trước khi chia tay với Pôinđekter và bạn bè của ông, viên thiếu tá đã kể cho ông nghe về những pháthiện đáng buồn của Xpengler. Tự bản thân ông không thể tham dự vào cuộc tìm kiếm nữa và ông cho rằng những ai tiếp tục nó, cần phải biết tình thế đáng quản ngại này. Ông không lấy gì làm dễ chịu nêu lên những nghi ngờ chống lại chàng Iếclăng trẻ tuổi, người mà ông rất có cảm tình. Những nghĩa vụ phải cao hơn tất cả. Và mặc dù viên thiếu tá không tin vào những tội lỗi của Moric-Muxtangher, hay đúng hơn ông cho rằng nó có rất ít khả năng. Nhưng ông cũng phải công nhận rằng, những chứng cứ chống lại Moric là rất nghiêm trọng. Nhưng ngài chủ đồn điền và bè bạn của ông thì không lúc nào là không tin vào tội lỗi của chàng Muxtangher. Giờ đây, khi đã rõ rằng bọn người da đỏ không có tội lỗi gì ở đây, thì mặc nhiên Moric Giêran bị coi là kẻ giết người. Việc giết người đã được thực hiện như thế nào thì không còn ai nghi ngờ. Câu chuyện của Ôbeđôphê làm sáng tỏ đoạn đầu của tấn thảm kịch. Con ngựa của Henri Pôinđekter với chiếc yên đẫm máu là cái kết cục của nó. Những mắt xích đứt đoạn cũng không khó gì mà không dựng lại được từng phần dựa theo những chứng cớ tìm thấy của Xpengler kèm theo dự đoán. Mặc dầu vậy, không ai suy nghĩ một cách nghiêm túc về những gì xô đẩy chàng Muxtangher đến tội ác này. Đối với mọi người, cuộc cãi lội với Kôlhaun dường như là một nguyên nhân đầy đủ. Rõ ràng Giêran đã mang sự căm thù đối với Kôlhaun đến cho tất cả gia đình Pôinđekter. Điều này không được lôgic cho lắm, nhưng những con người đang tìm kiếm thủ phạm thường khó mà suy luận lôgic được. Họ chỉ nghĩ đến việc trừng phạt chàng. Với ý nghĩ này những người tham gia tìm kiếm giải tán, họ cần phải gặp nhau vào sáng hôm sau để lại lần theo dấu vết. Phải tìm được người mất tích dù là còn sống hay đã chết. -o0o- Những người ở lại với Xpengler hạ trại trên một khoảng rừng đã được ngài thiếu tá chỉ định. Họ có chừng mười người. Một đội quân mạnh hơn giờ đây không cần thiết nữa. Người ta không chờ đợi dân Komantri ở những chỗ này. Cũng chưa dự đoán được những mối đe dọa khác. Vì thế họ được lệnh phải đi thành nhóm hai hoặc ba người. Một vài người ở lại vì tò mò, những người khác đơn giản vì bạn bè. Phần lớn họ là những chàng trai trẻ tuổi của các chủ đồn điền. Chính thức đứng đầu đội này là Kôlhaun, nhưng hiển nhiên, người chỉ huy cuộc tìm kiếm sẽ là người dò dấu vết Xpengler. Sau khi chia tay với bè bạn, họ chưa đi ngủ ngay, mà ngồi cạnh bếp lửa đang cháy đỏ rực. Thức ăn và rượu khá đủ vì những kỵ binh, khi quay về đồn, đã để lại thực phẩm dự trữ và những biđông đầy. Nhưng mặc cho ngọn lửa lách tách reo vui không khí cũng không sao sinh động lên được. Tâm hồn mọi người đều nặng trĩu hòa lẫn với sự thỏa mãn bởi đồ ăn thức uống đầy đủ. Giá như đó là bếp lửa gia đình thì niềm vui thầm lặng của họ trọn vẹn biết bao. Đôi khi trong khoảng bao la của đồng cỏ người ta buồn vì thiếu nó. Khi quay lại phía sau và so sánh một cách công bằng cái nọ và cái kia, người ta không thể không thốt lên: “Hãy trả lại cho tôi đống lửa và những bạn bè đi săn, cho tôi ngồi đây một lần nữa cùng họ cạnh đống lửa cháy lách tách, và tôi sẽ hiến cho các người tất cả những của cải dành dụm được của tôi, tất cả những vinh quang vô ích của tôi! Tôi sẽ rất hạnh phúc là tặng lại các người tất cả những cái đò cùng với những lo toan và khó khăn cần thiết để giữ được chúng”. Tâm trạng u ám của đám thanh niên dễ giải thích: tất cả còn chưa hồi lại sau cơn khủng khiếp mà kỵ sĩ không đầu gây ra cho họ. Họ đến vỡ đầu vì cố giải thích sự viếc đã xảy ra, thậm chí đôi khi họ còn đùa cợt cái bóng ma bí mật đó nhưng không sao thoát khỏi cảm giác nặng trĩu, không một sự phỏng đoán nào của họ có thể giải thích được. Cả Xpengler và Kôlhaun cũng chia sẻ tâm trạng chung. Người sau hình như là u ám hơn tất cả. Hắn ngồi trong một bóng cây, xa đống lửa, mặt nhăn nhúm. Rõ ràng, hắn không muốn đến gần những người đang ngồi sưởi cạnh đống lửa đỏ rực, hắn muốn một mình, dường như hắn sợ những cái nhìn tò mò. Cái nhìn của hắn lơ láo, khuôn mặt hắn hằn lên dấu vết của nỗi kinh hoàng vừa trải qua. - Nghe đây, ngài Kacxi Kôlhaun! - Một người trong đám trai tráng đã kêu lên với hắn - Đến đây, ông bạn cũ, hãy uống cùng chúng tôi. Tất cả chúng tôi rất thông cảm với nỗi cay đắng của ngài và sẽ quyết giúp ngài trả thù. Nhưng không cần thiết phải kéo dài sự đau khổ như vậy! Hãy lại đây và nhấp chút uýtki. Cái đó rất có lợi cho ngài, tôi thề đấy. Hoặc là Kôlhaun thích cái nguyên nhân mà người ta giải thích sự cô đơn của hắn, hoặc đột nhiên hắn thích ngồi cùng bè bạn, hắn nhận lời mời và đi tới bên đống lửa, ngồi cạnh những người khác. Trước khi ngồi hắn uống một ngụm từ chiếc bi đông chìa ra phía hắn. Từ phút đó hắn thay đổi như có phép màu. Tâm trạng u ám của hắn tan đi, hắn trở nên vui vẻ đến nỗi gây nên sự ngạc nhiên đối với những người xung quanh. Cái cung cách như vậy dường như không đúng lúc đối với một người mà chỉ vừa mới lúc rạng sáng, như mọi người đã giả thiết, có người em họ bị giết. Đi tới lúc đầu như một người khách, bây giờ hắn nhanh chóng xử sự như một ông chủ. Chờ cho khi tất cả các biđông đã rỗng, viên đại úy bắt đầu rót rượu từ những biđông của mình, mà lượng dự trữ của chúng dường như vô tận. Từ chiếc bọc yên hiện ra liên tiếp những biđông, mà nhiều bạn bè để lại cho hắn, sau khi ra đi cùng viên thiếu tá. Những tay chơi trẻ tuổi Tếchdát, sau khi tụ tập lại cạnh đống lửa được khích lệ bởi tấm gương của người cầm đầu, không từ chối sự chiêu đãi của hắn, họ tán chuyện, hát, nhảy nhót và cười hô hố. Sau đó sự mệt mỏi đã thắng: họ nằm la liệt trên cỏ và thiếp đi: một vài người trong số họ có thể đó là lần đầu tiên trong đời bị cái say kinh khủng hành hạ. Viên đại úy giải ngũ đi nằm sau cùng. Hắn nằm sau cùng nhưng lại dậy đầu tiên. Cuộc chơi bời kết thúc. Tiếng ngáy của những kẻ nhậu nhẹt cùng hắn vừa vang lên, chứng tỏ rằng bọn họ đã ngủ say, hắn liền ngồi dậy và len lén luồn đi giữa họ. Cũng bằng những bước chân thận trọng như vậy hắn lần ra đến mép trại nơi mà hắn buộc con ngựa của mình vào một gốc cây. Sau khi tháo dây cương và ném nó lên vai ngựa hắn nhảy lên yên và ra đi không một tiếng động. Kế hoạch của hắn là gì? Có thể hắn lên đường đi tìm xác người em đã chết vì tình thương chăng? Hay muốn tỏ cái nhiệt tình đặc biệt của mình, hắn ra đi một mình? Nếu nghe được những lời lẽ buột ra khỏi miệng hắn có thể nghĩ rằng hắn hành động theo những ý định tương tự. - Ơn Chúa, trăng sáng và ta còn được sử dụng được cả sáu tiếng đồng hồ. Khi bọn trẻ còn đang ngủ, đủ thời gian tìm kiếm mọi góc trong rừng trong khoảng hai dặm xung quanh đây, và nếu cái xác còn ở đó, thì ta nhất định sẽ tìm ra nó. Nhưng cái bóng này là nghĩa lý gì vậy? Nếu như chỉ mình ta nhìn thấy, thì ta đã nghĩ rằng ta điên. Nhưng tất cả đã nhìn thấy, tất cả cho đến từng người! Ôi, Đấng Toàn năng! Đó là cái gì mới được chứ? Nhưng chưa kịp nói xong những lời này, từ miệng hắn đã bật ra một tiếng rú kinh ngạc và khiếp hãi. Hắn dừng phắt ngựa lại, dường như có một nguy cơ chết người đang đe dọa hắn. Kôlhaun đi theo rìa con đường rừng đến khoảng trống mà chúng ta đã rõ. Khi đó bỗng dưng hắn nhìn thấy có ai đó nữa cũng đang đi trong rừng. Một kỵ sĩ khác trên ngựa, rõ ràng như hắn đang đi trong khoảng trống mà không phải bằng những bước chậm rãi, mà bằng nước kiệu nhanh. Còn lâu người kỵ sĩ vô danh kia mới tiến tới gần song Kôlhaun đã kịp nhận ra là nó không có đầu. Không thể nào lầm lẫn được: những tia sáng nhợt nhạt của mặt trăng chỉ chiếu sáng đôi vai của người kỵ sĩ. Đầu không có. Đây không thể là ảo ảnh sinh ra bởi ánh trăng. Kôlhaun đã nhìn thấy hình dáng này trong ánh sáng mặt trời rực rỡ. Nhưng giờ đây Kôlhaun nhìn thấy nhiều hơn - hắn đã nhìn thấy chiếc đầu: nó treo ở trên đùi của người kỵ sĩ, một nửa che khuất trong vành mũ, bê bết máu me, trông vô cùng dễ sợ… Hắn nhận ra con ngựa, chiếc xerap có vằn trên vai kỵ sĩ, đôi ghệt bằng da báo. Toàn bộ trang phục là của Moric-Muxtangher. Kôlhaun có đủ thời gian để nhìn một cách chi tiết. Hắn đứng ở rìa con đường mòn, chết lặng đi vì sợ hãi, không còn hơi sức nào để rời khỏi chỗ. Con ngựa, dường như cũng chia sẻ nỗi sợ hãi của chủ. Nó run toàn thân, không làm nổi một cử động nào để chạy đi, thậm chí cả khi kỵ sĩ không đầu bỗng nhiên dừng lại trước mặt họ và con ngựa tía vừa hý vang vừa nhảy dựng lên. Chỉ sau khi con ngựa tía với tiếng hý man rợ, được hồi âm lại bằng tiếng sủa của một con chó chạy ngay sau nó, con ngựa tía mới quay ra phi tiếp trên con đường rừng. Lúc bấy giờ Kôlhaun mới lại hồn và lắp bắp được. - Lạy Chúa! - Hắn kêu lên bằng một giọng run lập cập - Thế này là nghĩa lý gì! Cái này, người hay ma quỉ? Hay là cả ngày hôm nay là một giấc mơ khủng khiếp? Hay ta điên? Ta điên mất rồi, ta điên mất rồi! Sau những câu rời rạc này, Kôlhaun quả quyết kéo cương và quay ngoắt ngựa lại. Hắn phi ngược lại, chỉ có điều là nhanh hơn nhiều. Rõ ràng là hắn đã từ bỏ ý định. Hắn còn chưa dừng lại chừng nào còn chưa đến được nơi hạ trại. Tớinơi, hắn rón rén tới bên đống lửa, nằm xuống cạnh những người bạn rượu của mình. Nhưng hắn không tài nào ngủ được. Hắn không hề chợp mắt được một phút, hắn run bần bật như lên cơn sốt rét. Buổi tờ mờ sáng chiếu lên khuôn mặt tái mét chết cứng và cặp mắt hoảng loạn như người mất trí của hắn.