Chương 41
NHÓM BỐN KỴ

Đội kỵ sĩ, do viên thiếu tá đứng đầu, không phải là những người độc nhất đi khỏi đồn biên Inđ trong buổi sáng đáng ghi nhớ này.
Còn sớm hơn rất nhiều, hầu như từ tờ mờ đất, cũng theo hướng đó - hướng đi tới sông Nuexet – có một nhóm bốn người ra đi.
Chắc gì những người đó đi tìm xác của Henri Pôinđekter. Trong khoảng thời gian rất sớm ấy, còn chưa ai nghi ngờ rằng chàng trai đã bị giết hoặc dù chỉ là bị mất tích. Con ngựa không người cưỡi còn chưa mang đến tin buồn. Cả khu cư dân còn đang ngủ, chưa ai biết rằng, một dòng máu vô tội đã đổ.
Mặc dầu hai đoàn người ra đi theo cùng một hướng và định đến cùng một chỗ, nhưng giữa các kỵ sĩ của hai đoàn không có gì chung. Những người đi sớm hơn là những người Tây Ban Nha, hay nói đúng hơn là trong huyết quản của họ dòng máu Tây Ban Nha hòa lẫn với dòng máu Aktek. Nói cách khác, đó là những người Mếchxich.
Để thấy được điều này không cần chi tới những hiểu biết đặc biệt. Người quan sát chỉ cần liếc nhìn họ là đủ. Chỉ cần nhìn kiểu cách của họ ngồi ngựa, những cặp đùi dài nhìn thấy đặc biệt rõ bởi yên ngựa rất cao, những chiếc xerap rực rỡ rủ trên vai, những chiếc quần nhung, những tua trên ủng và cuối cùng là chiếc mũ xambrêrô có vành rộng. Tất cả những điều này nói lên rằng họ là người Mếchxich hoặc là những người đã theo phong tục của dân Mếchxich. Nước da rám nâu, tóc đen cắt ngắn, cằm nhọn, khuôn mặt trái xoan cân đối - tất cả những đặc điểm rất điển hình của giống người Aktek – Tây Ban Nha hiện giờ đang sống trên vùng đất của Môntexum (thủ lĩnh tối cao của dân Aktek trong thời gian người Tây Ban Nha xâm chiếm Mếchxich.)
Một trong số các kỵ sĩ trông rắn chắc hơn những người bạn đường. Con ngựa của hắn tốt hơn những con khác, quần áo sang trọng hơn, vũ khí tinh xảo hơn, và những điều còn lại cho thấy hắn là người cầm đầu của nhóm.
Có thể thấy hắn là người rất đẹp nếu không có cái nhìn nặng nề, lạnh lẽo, vẻ mặt cau có, tất cả như nhằm tố cáo sự thô thiển và tàn nhẫn trong tính cách của hắn.
Thậm chí nụ cười đẹp đẽ của đôi môi rõ nét với hai hàm răng đều trắng bóng cũng không thể xóa đi cảm giác này. Trong nụ cười của hắn có cái gì đó ma quái.
Không phải do bề ngoài mà bạn bè gọi hắn bằng cái tên của loài thú, mà mọi người đều biết rõ ở vùng đồng bằng Tếchdát. Hắn có một biệt hiệu không đẹp – “Et-kôiôt – Sói đồng” – vì tính cách và những hành vi của mình.
Điều gì đã xảy ra khiến “Sói đồng” đi vào đồng cỏ sớm như vậy. Rõ ràng là hắn tỉnh táo, hơn nữa lại cầm đầu một nhóm người? Mà chỉ vẻn vẹn vài giờ trước đó hắn còn nằm trong lều của mình, say mèm đến nỗi không những không lịch thiệp mời khách mà thậm chí không hiểu được điều gì xảy ra với mình.
Sự thay đổi đột ngột đến mức lạ lùng không có gì khó giải thích. Chỉ cần kể lại những gì xảy ra từ lúc Kôlhaun đi khỏi nhà hắn cho đến cuộc gặp gỡ của Sói đồng với ba người đồng hương của hắn là đủ.
Đến sáng hắn tỉnh lại bởi cái lạnh và sự ẩm ướt. Chính vì vậy mà hắn tỉnh táo ra. Nhảy khỏi giường, hắn vừa lảo đảo đi lại trong căn lều vừa chửi rủa cánh cửa mở toang để cái lạnh tràn vào.
Có thể nghĩ rằng, hắn sẽ đóng ngay cửa lại. Nhưng hắn không. Cử là chỗ hở duy nhất để cho ánh sáng lọt vào, nếu không kể đến các khe trên những bức tường cũ kỹ. Mà ánh sáng là cần thiết để hoàn thành các dự định, mà vì nó mà hắn ngồi dậy!
Nhưng ánh sáng của buổi sáng sớm, xuyên qua cánh cửa mở toang chiếu mờ mờ trong lều “Sói đồng” lảo đảo quay vòng, vấp ngã và hắn cứ nguyền rủa cho đến khi hắn tìm ra cái hắn cần: đó là chiếc bình lớn làm bằng vỏ quả bầu có hai lỗ, ở giữa buộc bằng sợi dây chằng. Nó dùng để đựng nước uống nhưng thường hơn cả là dùng đựng rượu.
Tên Mếchxich cuối cùng đã mở được nút bình, nhưng cái mùi bốc ra nói lên rằng cách đây không lâu trong đó đã chẳng còn rượu nào nữa. Nhưng phải từ những lời nguyền rủa thậm tệ của chủ nó người ta mới biết là nó trống rỗng:
- Ma quỉ! - Hắn gào lên, để quả quyết chắc rằng không còn gì, hắn lắc lắc chiếc bình trong tay với vẻ thất vọng ghê gớm - Trời, không một giọt! Cạn đến đáy! Lưỡi ta dính chặt vào hàm rồi. Cổ ta cháy bỏng như nuốt phải than hồng vậy. Quỉ tha ma bắt! Ta không chịu được nữa rồi, làm sao bây giờ? Trời đã sáng. Phải đi vào khu cư dân mới được. Có thể xenhor Đôphê đã mở cái bẫy của mình để dụ những con chim sớm. Đã vậy Sói này sẽ xuất hiện ở chỗ hắn ta.
Sau khi quàng chiếc bình lên cổ, khoác xerap trên vai, Sói đồng lên đường, đến khu cư dân.
Quán rượu chỉ cách căn nhà của hắn vài trăm acđơ, cùng bờ bên này của con sông. Con đường này khá quen thuộc đối với hắn, đến nỗi có bị bịt mắt hắn cũng đi được đến nơi. Hai mươi phút sau hắn lảo đảo tiến tới gần tấm bảng treo: “Dừng chân”
Hắn gặp may: Ôbeđôphê đang lăng xăng trong bar phục vụ khách sớm. Một vài người lính lẻn ra khỏi doanh trại để nhấp giọng sau giấc ngủ.
- Lạy Chúa, ngài Điac! - Chủ quán vừa nói vừa chào người khách mới và bỏ mặc sáu người khách uống nợ để đón khách mới mà ông ta biết là sẽ trẻ khá hậu hĩnh - Lạy Chúa tôi! Ngài đi bộ sớm vậy? Tôi biết ngài ưa thứ gì rồi.Ngài muốn tôi rót đầy bình của ngài thứ vôtca Mếchxich ag… ag… ngài gọi như thế nào nhỉ?
- Agvadient! Ngài đoán đúng đấy, kabalerô ạ. Cái này chính là cái ta đang cần.
- Một đôla! Bình này giá một đôla.
- Mẹ kiếp! Ta vẫn nhớ giá. Đây, một đôla cho ngài, còn đây là bình. Rót đi, nhanh lên!
- Ngài vội ư, ngài Điac? Tôi không bắt ngài đợi đâu. Ngài định đi săn bọn muxtang trong đồng cỏ ngựa hoang ư? Tôi sợ rằng người Iếclăng kia đã đi trước ngài. Ông ta đi từ đêm kia. Ra khỏi nhà lúc nửa đêm, một giờ quá muộn để đi du hành. Tay săn ngựa này quả là một con người rất kỳ quặc nghĩa là tôi đang nói tới ngài Moric Giêran đấy ạ! Không ai và không bao giờ có thể đoán trước một điều gì về ông ta. Riêng tôi, tôi không có gì để chống lại ông ta. Ông ấy đã là một người khách trọ tốt, thanh toán phần lớn về phần mình, như một con người giàu có, và ông ta vẫn còn khá nhiều nữa, Chúa ơi, túi ông ta đầy những đôla!
Người Mếchxich tỉnh ra ngay khi nghe tin người Iếclăng đã đi vào đồng cỏ ngựa hoang như Ôbeđôphê diễn tả. Đầu tiên hắn bày tỏ sự quan tâm của mình bằng một tiếng kêu ngạc nhiên khe khẽ và sau đó không kìm được những cử chỉ nóng ruột trong khi đứng nghe những lời huyên thuyên của người Đức kia.
Mặc dầu vậy hắn vẫn cố gắng dấu nỗi hồi hộp của mình. Thay vì hỏi han Ôbeđôphê, hắn trả lời với vẻ bất cần.
- Điều này chẳng lên quan gì tới tôi, Kabalerô ạ. Trong đồng cỏ có đủ muxtang, đủ cho tất cả mọi người. Mau lên, xênhor, đưa rượu đây cho ta.
Hơi bực mình vì người ta không nghe tiếp những chuyện ngồi lê đôi mách của mình, gã người Đức nhanh chóng múc đầy bầu rượu, rồi trả bầu cho người Mếchxich, cầm lấy tiền nhét nó vào thùng và quay về phía những người lính chịu chuyện hơn, bởi vì họ phải uống chịu.
Mặc dầu đang khát, nhưng Điac đi ra khỏi bar mà không hề mở nút chai, dường như đã quên mất nó.
Một chuyện khác đang làm hắn nôn nóng hơn cả chuyện uống.
Hắn không về nhà ngay mà ghé lại ba căn lều ở rìa khu cư dân, nơi có những kẻ thích kiếm chác đang sống và sau đó hắn mới trở về căn lều của mình.
Trên con đường ngược lại “Sói đồng” để ý thấy có vết của con ngựa đã được đóng móng, hắn còn nhận ra dấu vết đó kéo đến một cái cây cạnh lều.
- Mẹ kiếp! Đúng là đại úy người Mỹ đã ở đây đêm hôm qua. Quỉ tha ma bắt! Ta lờ mờ nhớ tới một cái gì đó như ta đã nằm mơ. Ta đã đoán ra được vì sao ông ta tới đây. Ông ta đã biết cuộc ra đi của Đông Môrixiô. Hẳn là ông ta cáu lắm khi thấy ta đang ngủ. Ha ha! Tất cả sẽ được hoàn tất không cần đến ông ta. Ta chả cần ông ta chỉ dẫn tiếp nữa. Một nghìn đôla, một món tiền khá! Khi nào nhận được ta sẽ đi ngay tới Riô-Granđ và dàn xếp cụ thể với Ixiđôra.
Nói xong đoạn độc thoại này, “Sói đồng” đi vào nhà. Hắn ở lại trong đó một khoảng thời gian vừa đủ để kịp nuốt một vài miếng thịt rán, uống vài ngụm rượu agvadient. Sau đó hắn đóng yên cương con ngựa của mình, đeo chiếc cựa giày to đùng, buộc vào yên khẩu cacbin nhỏ, đút súng lục vào bao, buộc vào thắt lưng những chiếc bao chứa dao găm, nhảy lên yên và phóng vụt đi.
Trước khi tới đồng cỏ, hắn ghé vào khu cư dân một lần nữa và ở đó hắn đợi những kỵ sĩ khác mà hắn đã báo trước phải đi cùng hắn.
Ba người bạn của “Sói đồng”, như đã rõ kế hoạch của hắn. Hay ít nhất họ cũng biết nơi hành động sẽ là Alamô. Bắt đầu con đường, khi Điac đi chệch về một phía, họ la lên với hắn rằng không đúng con đường đó.
- Tôi biết rõ sông Alamô - Một người trong số họ, cũng là người săn ngựa, nói – Tôi không chỉ một lần đi săn tới đấy, chỗ đó nằm cách đây về hướng Tây Nam. Con đường gần nhất đi tới đó là con đường rừng này. Ngài đã đi quá về phía Tây, Đông Miguel ạ.
- Thế hử! – Điac nói có vẻ coi thường – Ngài có lẽ là người Mỹ chăng, Xenho Vinxent Barahô. Ngài quên rằng ngựa của chúng ta đóng cá sắt. Bọn da đỏ đâu có đi thẳng từ đồn biên Inđ đến Alamô, để… Tôi hy vọng rằng ngài hiểu tôi chứ ạ?
- Đúng quá! – Barahô trả lời – Xin lỗi Đông Miguel. Mẹ kiếp! Tôi không nhớ tới điều này.
Ba người đi theo không còn đôi co gì nữa với “Sói đồng”. Chúng đi im lặng, cho đến khi đến được cánh rừng cách con đường rừng vài dặm. Nơi mà Barahô đã nhắc tới.
Lọt vào dưới những tán rừng, cả bốn tên xuống ngựa và buộc ngựa vào những gốc cây. Sau đó chúng bắt tay vào công việc chỉ có thể so sánh với những gì diễn ra sau cánh gà của một nhà hát tỉnh lẻ trước buổi biểu diễn một vở nhạc kịch nói về đời sống của những người rừng.