Phòng giám đốc của tờ Yorkshire Morning Gazrtte tường ốp bằng gỗ sồi và treo những bức khắc chạm cúa các tác giả Anh nổi tiếng, những bộ đồ gỗ bằng hoa tâm được đánh lên bóng lộn, um khói thuốc lá và rung lên vì căng thẳng. Adams Fairley và bá tước Jocelyn Sidney ngồi đối diện với nhau ở hai bên cửa một chiếc bàn rộng thênh thang, vẻ mặt họ rầu rĩ, đôi mắt trang nghiêm. Họ hút thuốc liên tục hết điếu nọ đến điếu kia trong yên lặng tư lự. Chiếc gạt tàn bằng pha lê trước mặt đầy những mẩu thuốc đã dụi tắt nói lên nhiều giờ chờ đợi căng thẳng. Adams ăn vận bộ complet xanh sẫm cắt tuyệt khéo, luôn vặn vẹo người trong chiếc ghế bọc da đen, luôn tay vuốt mái tóc hoa râm. Miệng ông hằn lên nét mệt mỏi đột nhiên mím lại và đôi mắt màu xanh xám nhìn chằm chằm chiếc đồng hồ tích tắc một cách chính xác tàn nhẫn trong cái yên lặng như chì. - Mẹ kiếp tất cả! - Ông thốt lên không còn tự chủ được mình nữa. Ông quay ngoắt lại đối diện với Jocelyn. - Gần một giờ rồi. Nếu Parker không lẹ lên chúng ta sẽ lỡ mất lần in thứ nhất. Hắn cứ cò cưa mãi cái chuyện ấy hai mươi phút rồi. Không hiểu cái thằng ngu ấy làm trò gì? Jocelyn ngó nhìn Adams qua làn khói thuốc cân nhắc suy nghĩ từng từ, chắc hẳn thế. - Bây giờ thì chắc anh phải biết là như thế rồi chứ ạ, anh bạn. - Tôi sẽ đợi Parker năm phút nữa rồi tôi sẽ lên gặp hắn... - Adams ngừng lại khi một chú bé ở nhà in ào vào. Cánh cửa gỗ sồi nặng nề bật lại, tiếng tờ báo mới in lào xào trong phòng giám đốc yên tĩnh. - Đây là bản vẽ của trang nhất, thưa ngài. Ông chủ bút nói ông sẽ bắt đầu in trong năm phút nữa. - Cậu bé đặt bản in mới tinh hãy còn ướt mực lên bàn trước mặt Adams và biết mất. Cánh cửa đóng sầm phía sau và yên lặng hoàn toàn lặp lại. Jocelyn vội vã bước qua phòng, đặt tay lên vai rộng lớn của Adams, ông cúi xuống nhìn bản in. Dòng tít sắp chữ lớn màu đen và chạy dài cả trang. "Anh quốc tuyên bố chiến tranh với Đức" Hai cặp mắt lướt sang những dòng chữ nhỏ hơn: "Cuộc xung đột lớn bắt đầu. Tàu thả thủy lôi của Anh chìm. Bỉ bị xâm lăng. Hai chiến thuyền của hải quân chúng ta. Chính phủ kiểm soát đường sắt." Jocelyn lấy ngón tay chỉ vào tờ báo: - Parker làm thế nào mà tìm được tất cả những cái này, Adams? Trong lúc vội vã tới đây đêm nay, tôi đã quên mất kính và không đọc được chữ nhỏ. Adams đọc nhanh bản vẽ và nói: - Tôi nghĩ Parker đã viết tất cả những cái quan trọng, - ông nhìn lên Jocelyn. - Tôi đã ghê sợ cuộc chiến tranh này từ nhiều năm nay. Nhưng bây giờ chúng ta đã bước vào cuộc xung đột và không còn có thể quay lại được nữa rồi. Jocelyn giương mắt nhìn Adams: - Có phải những điều anh nói tối nay là nghiêm chỉnh không... rằng cuộc chiến này sẽ kéo dài? - Đúng thế, - Adams nói ngắn gọn. - Trái lại với một số chuyên gia ở London nói, tôi tin nó sẽ kéo dài vài ba năm. Ít nhất là hai. Quai hàm Jocelyn trễ xuống: - Lâu đến thế cơ à? Adams gật đầu, mặt ông cau có: - Đúng. Và nó sẽ là một cuộc chiến tranh tiêu hao. Núi thây, sông máu, thảm cảnh mà thế giới chưa từng được chứng kiến. Anh cứ nhớ lấy lời tôi, Jocelyn. - Ối trời, Adams, tôi cầu cho những lời nói của anh là sai. Tôi chân thành cầu như vậy. Adams không trả lời. Ông châm một điếu thuốc và trầm tư nhìn vào khỏang không gian, hình dung những hậu quả khủng khiếp khi Anh quốc bước vào chiến tranh. - Cả hai chúng ta đều phải dùng rượu mạnh, - Jocelyn tuyên bố sau một vài phút. Ông vội vã ra tủ, tay ông run run khi ông phai hai ly brandy và soda và mang chúng tới bên bàn. Ông đưa cho Adam và ngồi nặng nề xuống chiếc ghế bên cạnh. Cả hai không ai buồng cụng ly trong cái giây phút buồn bã này. Họ uống yên lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Adams Fairley vừa được chỉ định làm chủ tịch của tờ báo Yorkshire Morning Gazette, đã chú ý không hề biết mệt mỏi tới tờ báo trong bốn ngày qua, phân tích những bài từ văn phòng London và hãng Reuters đổ về, nghiên cứu những tin nghiêm trọng, nhìn nước Anh bị cuốn hút vào cuộc khủng hoảng châu Âu. Ông bạn cũ Joycelin Sidney vốn là khách thường xuyên, đi đi lại lại trong phòng giám đốc vẫn cứ khăng khăng là chừng nào hòa bình vẫn còn thì sự ngu xuẩn của chiến tranh có thể tránh được. Adams tiếp nhận tính lạc quan cố hữu của Jocelyn với sự bi quan tuyệt đối, phản ánh một sự thấu hiểu và can trường các sự kiện nói lên việc đã quá muộn không thể tránh được tai họa đang xô tới. Sự bi quan đó thể hiện rõ trong giọng nói của Adams khi ông đột ngột thức tỉnh và nói: - Chúng ta cũng chưa chuẩn bị gì cho cuộc chiến tranh này như chính phủ làm cho chúng ta tin là đã có đâu, Jocelyn. Ngạc nhiên lẫn với hốt hoảng trên mặt Jocelyn. Ông há miệng nhưng trước khi ông kịp nói thì Adams đã vội làm Jocelyn bớt nỗi hốt hoảng: - Tất nhiên là trừ lực lượng Hải quân. May mà Winston Churchill là bộ trưởng hải quân từ ba năm nay. Chỉ có ông và một số ít người khôn ngoan khác là nhìn thấy sự đe dọa của một cuộc chiến tranh đang tới gần và sẵn sàng đối phó với nó, - giọng nói của Adams trở nên thận trọng khi ông tiếp tục. - Jocelyn, tôi biết Churchill chưa bao giờ là người anh thích, nhưng anh phải thừa nhận là ông ấy có viễn kiến để nhận ra mối đe dọa ngày càng tăng của lực lượng hải quân Đức ngay từ năm 1911, khi tổ chức lại hạm đội. Và làm có hiệu quả bằng cách rút chiến thuyền của ta ra khỏi Trung quốc và Địa Trung Hải, tập trung hạm thuyền và chiến thuyền ở biển Bắc, ông đã tăng cường lực lượng của chúng ta một cách đáng kể. - Ừ, điều ấy hoàn toàn đúng, - Jocelyn nhượng bộ. - Và Churchill chỉ có một mục đích mà tôi thấy rất xứng đáng, đó là củng cố tính bất khả chiến bại của Hải quân Hoàng gia. - Đúng, hải quân mạnh, nhưng đó mới chỉ là một mặt thôi, Jocelyn. Quân đội chưa được tổ chức tốt chút nào hết và lực lượng không quân của chúng ta còn ít ỏi, mặc dù gần đây Churchill đã cố gắng nâng nó lên. - Adams dừng lại hút thuốc và kết luận. - Bộ chiến tranh trên không hề hữu hiệu. Sự thật, cái mà chúng ta cần lúc này là một ngoại trưởng mới cho chiến tranh! - Anh có nghĩ Asquith sẽ chỉ định một người không? - Jocelyn hỏi. - Mình chắc là ông ấy phải làm như thế, - Adams trả lời một cách chắc chắn. - Ông ấy không thể vừa làm thủ tướng điều hành Bộ chiến tranh được, không phải trong một thời kỳ khủng hoảng như thế này. Theo chỗ mình được biết về Asquith thì mình chắc rằng ông ấy đủ trí óc để mà nhận ra điều đó. Và mình hy vọng rằng ông ấy cũng đủ khôn ngoan để lựa chọn bá tước Kitchener vào công việc này. Đó là con người mà chúng ta cần trong giờ phút nguy khốn. Không phải chỉ vì khả năng to lớn của ông ấy mà còn vì cái tác dụng cổ vũ được tinh thần của dân chúng nếu ông ấy được chỉ định. - Đúng thế, tôi hiểu ý anh, - Jocelyn đồng ý. - Xét cho tới cùng, Kitchener là một anh hùng dân tộc. - Ông ấy còn hơn thế nữa, Jocelyn. Ông ấy là cơ chế của dân tộc. Đối với công chúng, ông ấy tượng trưng cho sự thành công. Mọi hoạt động quân sự ông ấy đảm đương đều thành công tốt đẹp. - Adams xoay xoay ly rượu, trầm ngâm. - Tất nhiên ông ấy phải tuyển quân đội mới. Bộ binh không lớn lắm. Sự thật, ai được chỉ định là ngoại trưởng phụ trách chiến tranh đều lập tức phải mở một chiến dịch tuyển những người chưa vợ con ra mặt trận. Bộ mặt xanh xao của Jocelyn xám lại: - Một chiến dịch tuyển mộ những người chưa vợ con, - ông run rẩy nhắc lại. - Tôi chưa nghĩ ra điều ấy. - Vì chúng ta không có hệ thống tuyển quân cưỡng bức nên đất nước phải dựa vào những người tình nguyện, thường là những người chưa vợ con tuổi từ mười tám đến ba mươi, - Adams dừng lại, ông nhìn vẻ mặt ốm yếu choáng váng trên mặt Jocelyn. - Anh có làm sao không, anh bạn? Trông anh nhợt nhạt quá. - Bọn con trai, - Jocelyn thì thào. - Tôi sẽ không thể nào ngăn được chúng, Adams ạ. Cả hai đứa sẽ tình nguyện ngay. Anh may mắn, anh Adams. Gerald đứng về mặt thể lực sẽ không bao giờ trúng tuyển, còn Edwin thì đã có vợ rồi. Vả lại, cậu ấy có ý thức trách nhiệm với anh và với Jane. - Nói thật với anh, đối với Edwin thì tôi không dám chắc. Có những lúc nó hành động rất bản năng. Đừng bao giờ nghĩ rằng đã có vợ rồi sẽ ngăn được nó không quyết định ra mặt trận. Edwin sẽ cân nhắc trách nhiệm của nó đối với nhà vua và đất nước, chứ không phải với gia đình, và thậm chí với Jane nữa. Tôi ngỡ là những cái đó sẽ vượt lên trên mọi cái khác. Jocelyn cắn môi bồn chồn: - Thật là lộn xộn quá sức, phải thế không? Mấy năm trước đây, ai có thể ngờ được rằng chúng ta lại lao vào một tình trạng tai ương như thế này, Adams. - Bruce Margin đã báo cho tôi biết từ mười năm trước là sẽ có một cuộc chiến tranh lớn, - Adams nói lặng lẽ, đôi mắt ông trầm tư. - Anh ấy đúng. Đó là năm 1904... - Trời ơi, thế a? - Jocelyn chen vào. - Tôi không ngờ ông bạn già Bruce lại là một người có nhãn quan chính trị đến như thế. - Tôi không chắc có phải như thế không, - Adams nhận xét. - Nhưng anh ấy quả là một người có thế lực và giàu một cách khủng khiếp, và anh ấy có bạn giữ những chức vụ cao. Năm ngoái khi Bruce ở London cùng Paul, con trai anh ấy, anh ấy mang nhiều điều báo trước, nhưng tôi phớt lờ đi. Tôi bắt đầu nghĩ rằng tôi là một con đà điểu như mọi người khác, - Adams đứng lên. - Tôi chắc là anh đã hủy bỏ cuộc đi săn, Jocelyn. - Tất nhiên. Không ai còn thiết đến gà gô vào một lúc như thế này, - Jocelyn đáp lại với một nụ cười nhợt nhạt. - Cảm ơn anh đã mời tôi đến xem báo. Tôi cám ơn, anh bạn già. - Tôi rất sung sướng có anh tới, Jocelyn. Thôi, bây giờ chúng ta đi, căn phòng này bắt đầu làm tôi ngạt thở. Một tiếng rưỡi sau, chiếc ô tô mới Daimler của Adams đi vào con đường sát nhà ở Fairley Hall. Adams chúc người tài xế ngủ ngon rồi nhảy lên bậc tam cấp. Murgatroyd quanh quẩn trong phòng ngoài mờ mờ tối. Lão vội vã tiến ra khi nhìn thấy Adams, vẫn lễ phép khúm núm như bao giờ. - Bà Fairley đã xuống bếp nói với tôi và bà bếp là chúng ta đã có chiến tranh. Ôi, thật là một tin khủng khiếp. Adams hắng giọng: - Ồ, đúng đấy, Murgatroyd ạ. Những ngày phía trước sẽ là những ngày gian khổ cho tất cả chúng ta. Nhưng chúng ta phải bình tĩnh và vững vàng trong giờ phút khó khăn của Tổ quốc. - Ông để ý thấy ánh sáng hắt ra từ phòng đọc của thư viện. - Bà Fairley chưa đi nghỉ sao, Murgatroyd? - Thưa ngài, chưa. Bà còn đợi ngài. Tôi vừa nhóm thêm lửa và pha chocolate nóng để bà dùng. Trời hôm nay lạnh khủng khiếp. - Ừ, - Adams bước nhanh qua phòng. Olivia đã nghe tiếng Adams và nàng đi được tới nửa căn phòng thì ông vào. - Ôi, Adams. Thật là quá ư khủng khiếp, - nàng kêu lên và chạy vào trong vòng tay chồng. Ông ôm nàng một lát và vuốt tóc nàng. - Ừ, đúng thế, em yêu. Dù sao thì chúng ta đã đợi chờ nó và chúng ta phải dũng cảm, - ông nhích ra và nhìn xuống mặt nàng. - Đáng lẽ em không nên thức đợi anh. Khuya quá rồi, em yêu. Nàng mỉm cười đáp lại: - Em nóng lòng muốn gặp anh. - Anh thấy trong người hơi mệt. - Có lẽ uống một chút gì cho đỡ chăng? - nàng gợi ý. - Có thể. Anh sẽ uống chén rượu trước khi chúng mình đi ngủ. Cho anh brandy. Oliva thoáng nhìn ông âu yếm. Adams nhìn nàng nhẹ lướt qua phòng, tâm hồn ông sảng khoái như mỗi lần ông ở bên nàng. Chiến tranh bị lãng quên trong chốc lát. Nàng mặc chiếc áo dài màu xanh thẫm làm tôn thêm dáng vóc thon thả và màu mắt nàng. Mặt nàng vẫn không nếp nhăn và những sợi trắng điểm qua mái tóc đen dày của nàng trông thật dễ thương. Ở tuổi năm mươi tư, nàng là một phụ nữ đẹp hơn với tuổi tác. Họ đã lấy nhau được sáu năm. Năm 1907 luật hôn nhân một người có thể lấy chị vợ hoặc em vợ đã được chính phủ thông qua. Adams đã thuyết phục Oliva làm vợ ông năm 1908 và hai người hoàn toàn hạnh phúc, hợp nhau đến độ trên đời này họ không còn biết đến ai nữa. - À, này, Edwin gọi điện đấy. Em nói với con về tình hình phát triển đen tối, - Olivia vừa nói vừa mang rượu trở lại lò sưởi. Adams cứng người lại: - Nó phản ứng thế nào? - Một cách hiền lành đáng ngạc nhiên, em nghĩ vậy. Con và Jane sẽ từ Kirkbymoorside lái xe về ngày mai ở với chúng ta, một tuần như chúng ta đã dự định. - Ồ, đó là tin tốt, - Adams nói. - Anh biết Edwin, anh nghĩ nó đã quay về thành phố lao vào công việc. Anh mừng nó sẽ tới, ít nhất em cũng có người bầu bạn ban ngày khi anh đi vắng. - Anh có nghĩ là chúng nó hạnh phúc không, Adams? - Anh làm sao mà biết được. Tại sao em hỏi vậy? - Ông chợt nảy ra ý nghĩ có lẽ Olivia cũng nhận thấy thiếu sự nồng nàn giữa con trai ông và con dâu. - Em cũng khó có thể biết, - Olivia nói một cách suy tư. - Có một sự ngăn cách giữa hai đứa. Ồ, bên ngoài Edwin rất duyên dáng và ý tứ, nhưng không trìu mến lắm. Em thấy hai người không có vẻ gì là đôi vợ chồng. Đôi khi em để ý thấy vẻ trống trải dễ sợ trong đôi mắt Edwin, - Olivia dừng lại, đăm đăm nhìn Adams. Khi ông không trả lời, nàng thúc. - Anh có nhận thấy điều ấy không, anh yêu? Mặc dù rất mệt mỏi khi thảo luận vấn đề này, Adams cũng phải thừa nhận: - Ồ, nói thật là có. Nếu có chuyện gì trục trặc, thì hoàn toàn là đứng về phía Edwin. Mấy năm qua nó đã thay đổi ghê quá. Anh thấy hình như nó để cả 24 tiếng đồng hồ một ngày vào luật. Nó không có một thú vui nào khác và hình như quyết tâm trở thành một luật sư nổi tiếng ở nước Anh trước khi nó ba mươi tuổi. Và anh cảm thấy nó lơ là Jane một cách dễ sợ. - Vâng, đúng thế, - Olivia đồng ý. - Và nó có đầy đủ mọi lý do để mà hạnh phúc với vợ. Jane đẹp và duyên dáng, xử sự chững chạc đàng hoàng. Tội nghiệp chúng chưa có con. Anh phải thú thật là anh mong có một đứa cháu nội. Lúc này anh chờ đợi lắm. Nói cho cùng, chúng đã lấy nhau được ba năm rồi. Olivia nhìn đăm đăm ngọn lửa và một lát sau, nàng quay lại nhìn Adams: - Anh có tin câu chuyện lếu láo Gerald kể với anh mấy năm trước đây không? Câu chuyện về Edwin và Emma Harte ấy mà? - Tất nhiên là không! - Adams thốt lên, ao ước mình nói như mình nghĩ. Hết sức muốn che chở cho Olivia, ông không muốn làm nàng lo nghĩ đêm nay bằng cách lôi ra những bộ xương ngày xưa. Vì thế, một lần trong đời, ông nói dối nàng. - Gerald không bao giờ chú ý tới sự thật. Câu chuyện của nó không những là ngớ ngẩn lố bịch mà còn hoàn toàn vô căn cứ nữa. Rõ ràng là nảy sinh từ ý muốn của nó bôi nhọ Edwin trong mắt anh. Em biết là Gerald luôn luôn ghen ghét với em nó. Olivia không hoàn toàn an tâm: - Em nhớ lúc ấy anh có bí mật điều tra về Emma và đứa bé, nhưng anh có chắc thông tin của anh là đúng đắn không, Adams? - Tất nhiên là đúng! - Ông để bình rượu xuống và cầm lấy tay Olivia. - Kìa, vì sao bỗng nhiên em lại lo lắng về chuyện ngày xưa? Nó đã quên lãng từ lâu rồi mà? - Em quả thực không biết nữa, anh yêu. Em cho rằng bởi vì chúng ta bắt đầu nói chuyện ấy là không thật thì Edwin không có vết gợn tì trong lương tâm của con nó, - mắt nàng lướt trên mặt Adams dò hỏi. - Thế nhưng thỉnh thoảng em chợt nảy ra ý là có điều gì đấy. Có lẽ cái nhìn lạ lùng trong mắt nó làm em buồn lòng, Adams. Adams cau mày: - Thôi nào, em yêu, - anh nói dịu dàng. - Em giàu óc tưởng tượng quá. Gerald chỉ chuyên môn nói dối. Anh tuyệt đối tin tưởng như thế. Còn như ánh mắt của Edwin, ừ thì, có thể chỉ là nảy sinh từ cái thất vọng trong cuộc hôn nhân của nó. Em nên biết như anh là không phải tất cả những cuộc hôn nhân đều hạnh phúc như chúng mình. - Vâng, đúng thế, - nàng lẩm bẩm và thở dài. - Tội nghiệp Edwin. Thật là khủng khiếp cho nó nếu nó không yêu Jane. Cũng thật đau lòng cho cô ấy. Adams muốn chấm dứt cuộc nói chuyện này, vì thế ông nói kiên quyết: - Khuya quá rồi, em yêu. Chúng ta đi ngủ thôi. Khi họ rời thư viện, Adams thừa nhận với mình là tình trạng hôn nhân của Edwin không đặc biệt làm ông quan tâm lúc này. Nỗi lo âu nung nấu của ông là Edwin có thể tình nguyện vào quân đội, bởi vì Adams biết rằng cậu bé không thiết quan tâm gì đến an toàn của chính mình nữa. Bi thảm thay tính bản năng của con người đã chết trong lòng Edwin từ ngày Jack Harte chết. Adams tin rằng cậu con thứ của ông chẳng còn cần là mình sống hay không, và thái độ này cộng với tinh thần ái quốc của anh sẽ xô đẩy Edwin vào quân ngũ.