Cơn mưa như thác trút xuống khi Paul rời viện an dưỡng ở ngoại ô Sydney. Anh kéo cao cổ áo mưa và lao về phía chiếc Daimler. Anh ướt sũng khi vào tới bên trong xe, anh cởi chiếc áo vét ướ, quẳng nó một cách cẩu thả lên ghế sau. Anh lấy một chiếc khăn tay lau bộ mặt ướt đẫm nước trước khi châm điếu thuốc. Anh để ý thấy bàn tay mình run. Anh đã nổi một trận lôi đình với Constance, vì vậy điều này không lạ. Xuýt nữa thì anh đã đánh cô ta một vài phút trước đây, anh đã phải vận dụng toàn bộ lý trí để tự kìm mình, để từ biệt cô ta với một chút lịch sự. Những cơn xúc động mãnh liệt của anh làm anh ngạc nhiên. Trong đời anh chưa bao giờ đánh một người phụ nữ, từ nhiều năm nay chưa hề giận dữ điên cuồng như vậy. Paul đút khóa vào công tắc, đánh xe ra khỏi bãi đỗ và lái ra dường chính quay trở về thành phố. Sự kiên nhẫn của anh với Constance đã hết từ lâu cùng với lòng thương hại và bây giờ anh căm ghét cô ta. Căm ghét cô ta. Mẹ kiếp, anh sẽ không bị trói buộc với cô ta lâu hơn nữa. Anh sẽ tìm cách để ly dị. Anh sẽ nói chuyện với cố vấn pháp luật của anh. Phải có một khe hở pháp luật để gỡ ra khỏi cuộc hôn nhân lố bịch này, sự thật chẳng phải là hôn nhân gì hết trong hai mươi bảy năm trường. Thật là phi lý khi một người có một quyền lực không ai có thể chối cãi được lại ở trong một tình trạng chông chênh như thế này, bị trói buộc bởi một kẻ loạn trí cứ bám nhằng nhằng lấy anh chỉ vì sự ngang ngạnh. Anh tự hỏi không biết anh đã làm gì Constance để cô ta trừng phạt anh đến như thế. Anh đã từng là một người chồng tốt trong những năm đầu. Chính do sự nghiện ngập và lang chạ của cô đã len vào cuộc tình của hai người và đã giết chết tình yêu của anh với cô. Anh phải có được sự tự do của mình. Cho Emma và Daisy. Và dứt khoát anh phải đạt được nó, dù trời long đất lở. Anh nắm chặt tay lái và lao đi một cách cuồng nộ trên đường. Bầu trời trắng, nhợt đi vì ánh chớp, chao đảo vì tiếng sấm bên tai, một cơn mưa to bất thần tới, nước mưa trút xuống hối hả, dòng dòng nhỏ xuống cửa xe thoáng làm mắt anh mờ đi. Anh lái quặt quá nhanh, nhìn thấy chiếc xe tải tiến lại quá chậm. Theo bản năng anh quẹo và phanh, nhưng chiếc xe đi với một tốc độ quá nhanh và hình như nó cứ tiến theo vận tốc của nó. Nó trượt đi không sao điều khiển nổi và lao vùn vụt trên con đường đẫm nước. Anh cố gắng lấy lại tay lái, nhưng mặc dù sức mạnh ghê gớm của anh, anh vẫn không thể làm nổi. Chiếc xe chồm lên lề đường, tung lên không, lộn vòng tròn rơi trong rãnh va vào tảng đá lớn. Anh cảm thấy mình bị đè bẹp trong tay lái, rồi sau đó anh ngất đi. Chính người lái xe tải đã lôi anh ra khỏi đống đổ nát chỉ một giây trước khi chiếc xe kia bốc lửa. Paul vẫn bất tỉnh nhân sự khi xe cấp cứu tới bệnh viện Sydney vài tiếng đồng hồ sau đó. Và anh vẫn bất tỉnh nhiều ngày liền. Anh còn sống được là nhờ một điều thần diệu, các bác sĩ nói. Paul tự đẩy chiếc xe lăn của mình qua phòng làm việc cho đến khi anh đến ngay trước bàn giấy của anh. Anh châm một điếu thuốc rồi bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng đống tài liệu về luật pháp mà Mel Harrison, cố vấn pháp luật của anh đã đưa cho anh một tuần trước, ngay trước khi anh xuất viện. Anh liên tục lần qua những trang giấy, đi tìm bất cứ một chỗ thiếu sót nho nhỏ nào, hoặc một câu thiếu rõ ràng mà cho đến nay, anh vẫn chưa tìm ra. Nhưng để cho tuyệt đối chắc chắn trước khi ký, anh đọc lại một lần cuối cùng, đọc từng trang chậm chạp, cân nhắc từng chữ một cách tỉ mỉ. Sau ba tiếng đồng hồ, anh hài lòng thấy không một chỗ nào có thể thuyết minh sai lạc. Như thường lệ Mel đã thảo tập tài liệu một cách tài tình, tất cả đều kín kẽ, có thể chịu được thử thách ở bất cứ một tòa án nào, bất cứ một nước nào trên thế giới nếu như nó bị thách thức. Anh không chờ đợi điều đó xảy ra. Anh chỉ quan tâm tới việc những ý định chính xác của anh là trong sáng, và quả thực chúng là như vậy. Lần đầu tiên sau nhiều ngày, Paul mỉm cười. Câu chuyện xem chừng ổn. Đã gần sáu giờ, Mel sắp sửa đến. Thật là một người bạn kiên cường, tận tụy trong ba tháng nay từ khi xảy ra tai nạn, luôn luôn có mặt mỗi khi anh cần tới và không có mặt mỗi khi anh không cần. Chuẩn bị những giấy tờ pháp lý; chăm nom những công việc quá cẩn mật không thể trao cho bất cứ ai; hàng ngày đến thăm ở bệnh viện; thậm chí còn lơ là cả vợ và gia đình vào những ngày cuối tuần, ngồi với anh nâng đỡ lòng dũng cảm của anh, lôi anh ra khỏi tâm trạng đen tối khi nhận chìm anh. Từ khi băng được tháo, Paul không muốn tiếp một người khác nào trừ Mel và những người làm việc ở các Công ty McGill. Rõ ràng anh không muốn những người bạn khác nhìn thấy bộ mặt vỡ nát của anh. Anh không thể chịu được sự thông cảm, hoặc lòng thương hại của họ. Nỗi thất vọng ngấm ngầm qua người anh, anh nhắm mắt lại, tự hỏi không hiểu anh còn có thể tiếp tục được bao nhiêu lâu nữa. Đôi khi anh nghĩ anh không thể tha thứ được một ngày nào nữa của cuộc sống trong tình trạng khốn khổ này. Số phận thật cay nghiệt. Tai nạn đã chẳng bao giờ xảy ra nếu như anh nghe lời Emma ở lại New York, đừng trở về Sydney. Giờ đây, anh như thế này, bị buộc vào xe lăn và phụ thuộc vào người khác trong hầu hết mọi việc anh cần. Đó là một tình trạng không mấy dễ dàng đối với anh. Anh vốn là người thích uốn cuộc sống theo ý thích của mình, đảo lộn tình thế cho hợp ý mình. Nhưng từ khi xảy ra vụ tai nạn anh cảm thấy một nỗi bất lực quá lớn, quá tai hại. Nỗi buồn bực trở thành một cơn giận bốc lửa. Ngay cả tiền và ảnh hưởng của anh, ngày xưa vốn là một vũ khí mạnh mẽ thì bây giờ cũng hoàn toàn vô hiệu lực. Smithers, người quản gia đã làm việc với anh trong nhiều năm, gõ cửa đi vào phòng làm việc cắt đứt dòng suy nghĩ của Paul, gõ cửa đi vào phòng làm việc cắt đứt dòng suy nghĩ của Paul: “Thưa ngài, ông Harrison đã tới. Tôi đưa ông ấy vào đây, hay ngài muốn gặp ông ấy trong phòng khác ạ?”. - “Làm ơn đưa ông ấy vào đây, Smithers”. Một lát sau, Mel đã nắm tay anh: “Paul anh có khỏe không?”. - “Tôi cảm thấy khá hơn nhiều, dù tin hay không?”, Paul nói và chỉ tay về phía người quản gia: “Làm ơn chuẩn bị cho chúng tôi như thường lệ, Smithers”. - “Có ngay, thưa ngài”. Paul quay chiếc xe lăn ra khỏi bàn giấy: “Chúng ta hãy ngồi bên ngọn lửa. Dạo này tôi luôn luôn thấy lạnh thấu xương”. Khi người quản gia đã đi khỏi. Paul nói: “Đáng lẽ mấy tuần trước tôi phải buộc các bác sĩ cho tôi xuất viện lúc đó. Tôi nghĩ ở trong môi trường quen thuộc là có lợi cho tôi rất nhiều”. “Đúng như vậy”, Mel nói vui vẻ, “Chúc mừng, anh bạn”. - “Chúc mừng”, Paul trả lời. Họ chạm ly và Paul nói tiếp: “Tôi đã để nhiều thời gian nghiên cứu giấy tờ, Mel. Bây giờ chúng đã đâu vào đấy. Chúng ta có thể ký chúng sau đó”.- “Tốt, Paul. Nhân tiện, tôi đã nói với Audrey tôi không về nhà ăn cơm chiều. Nếu anh có thể chịu nổi sự có mặt của tôi hai đêm liền, tôi nghĩ tôi sẽ ở bên anh. Có được không?”. - “Tất nhiên. Tôi sẽ rất sung sướng có anh ăn tối với tôi”. Anh lăn xe qua bên quầy rượu, rót một ly Scotch nữa. “Ly của anh thế nào, Mel. Tôi rót thêm nhé?”. “Cám ơn, hãy khoan chút. Này, Paul này, bây giờ anh đã về nhà rồi mấy hôm nay tôi lại cứ luôn luôn nghĩ tới Emma. Tôi nghĩ chúng ta nên nói chị ấy đến. Tôi đã bàn chuyện này với Audrey và cô ấy đồng ý với tôi”. - “Không!”, Paul quay ngoắt chiếc xe lăn lại. Anh nhìn vào mặt Mel, đôi mắt anh bốc lửa. “Tôi tuyệt đối cấm điều ấy!”. Giọng anh đanh lại: “Tôi không muốn nàng nhìn thấy tôi trong tình trạng như thế này. Hơn nữa, tin tức mỗi ngày một xấu đi. Chúng ta có thể có chiến tranh với Đức nay mai. Tôi không muốn nàng đi nửa thế giới vào môt thời điểm nguy hiểm như bây giờ”. Mel nhìn Paul một cách thận trọng. “Tôi hiểu những tình cảm của anh. Nhưng tôi lo sợ điều nàng sẽ làm đối với những bức thư của tôi, cũng như anh trong những lá thư của anh. Anh cũng dùng những ảnh hưởng đáng kể của anh để những chi tiết của tai nạn không đưa lên mặt báo vì thế nàng không hay biết về tình trạng trầm trọng của anh. Nhưng phải chăng đã đến lúc anh viết cho nàng biết sự thật? Nàng nên biết”. Paul lắc đầu: “Nàng không được biết. Trong bất cứ tình huống nào”. Anh dịu giọng lại: “Chưa nên. Tôi sẽ quyết định lúc nào là lúc nên nói với nàng”. Mặt anh trở nên rầu rĩ. “Làm sao một người đàn ông có thể kể cho một người đàn bà sôi nổi, say đắm như Emma là nàng đã gắn bó đời mình với một kẻ tàn tật từ thắt lưng trở xuống, mất một nửa mặt và…”. Anh dừng lại nhìn Mel chăm chú. “Và liệt dương. Sẽ mãi mãi liệt dương. Điều ấy không dễ dàng đâu, bạn ơi, không dễ dàng một chút nào”. Mel không biết trả lời thế nào, một niềm thông cảm mãnh liệt tràn ngập, anh vội đứng lên khi Paul kịp nhìn thấy nỗi thương hại đầy mắt anh. Anh bước ra quầy rượu, nhấc chai Scotch. Anh nói: “Tôi nghĩ là anh đánh giá thấp Emma. Đúng vậy, tôi chắc chắn là như thế. Nàng muốn ở bên anh. Cho anh tất cả sự ủng hộ và tình yêu. Chúng ta hãy điện cho nàng, Paul. Ngay bây giờ”. - “Không”, Paul nói, giọng anh đột nhiên thấm đầy mệt mỏi. “Tôi không muốn nàng phải nặng gánh với tôi. Tôi không có ích lợi gì với nàng. Nếu cần phải biết sự thật, thì tôi cũng chẳng có ích gì với bản thân tôi”. Mel đi trở lại lò sưởi, moi óc, tìm một cách thuyết phục Paul gọi Emma. “Lúc này anh cần nàng hơn lúc nào hết trong đời, nhưng anh là một con quỷ ngang ngạnh và tự kiêu. Emma không nhìn sự việc như vậy. Nàng yêu anh. Sau nữa, nàng tôn thờ mảnh đất…”. Mel vội vàng chữa và hắng giọng. Thế rồi nét mặt anh rạng rỡ khi một ý nghĩ khác chợt đến. Anh nói nhanh. “Này, nếu anh không muốn Emma phải đi lại, tại sao chính anh không mua vé tới Anh? Một tháng là anh có thể tới nơi”. - “Điều ấy không thể thực hiện được. Tôi phải đi bệnh viện điều trị hầu như hàng ngày, trên tàu không có phương tiện y học, cái loại tôi cần”. Paul nuốt ngụm rượu và đặt ly xuống bàn. Anh lại nhìn Mel, đôi mắt hết sức trang nghiêm, giọng nói lạnh lẽo. “Còn một điều tôi chưa nói với anh, Mel. Sự tiên lượng về bệnh là xấu. Thực tế là rất xấu. Các bác sĩ không biết là có thể tránh được nhiễm trùng vào thận bao nhiêu lâu. Nó thường giết chết những người bị chứng liệt hai chi - suy thận”. Mel nhìn Paul, vẻ mặt hồng hào của anh tái mét. “B…ao… lâu?” – anh nói lắp, không thể hỏi hết câu. - “Chín tháng… là nhiều nhất”, Paul trả lời một giọng sự vụ. Anh đã điều chỉnh bản án tử hình của mình. Anh không còn một lối thoát. Mel nói một giọng thôi thúc đến tuyệt vọng. “Tôi nghĩ chúng ta phải mời thêm các chuyên gia, Paul. Chắc chắn phải có một phương án để…”. “Không, không còn một phương cách nào hết”. Paul nói. “Nếu như tôi bị gãy xương sống, các bác sĩ có thể nối lại được. Nhưng đoạn cuối giây thần kinh xương sống đã bị dập nát. Hiện nay chưa có cách nào để làm việc đó”. Mel nhìn vào ngọn lửa. Anh không có lời nào để an ủi Paul. Tai nạn này là một thảm họa, nhưng anh cứ tin là Paul có nhiều năm ở trước mặt, mặc dù phải gắn mình trong xe lăn. Nhưng bây giờ… Ôi, Trời ơi, thật là phí hoài quá, một con người quí giá và xuất sắc đến như vậy. Cuối cùng, sau một hồi dài yên lặng, anh nói: “Tôi có thể làm được gì không, Paul? Một chút gì không? Chỉ cần anh báo tôi thôi”. Paul mỉm cười hiền hậu: “Không, bồ ơi. Cám ơn bồ. Đừng xem nó quá đau đớn như vậy. Và lạy Chúa, đừng bắt đầu trở nên yếu đuối về tôi như thế. Tôi cần cái tính vui vẻ của anh, cái lạc quan của anh. Vả nữa, anh đã trở thành cánh tay phải của tôi, anh đã ở bên tôi rất nhiều. Tôi không muốn một bộ mặt sầu thảm ngó nhìn tôi. Thôi nào, chúng ta hãy uống một chầu nữa rồi sẽ ăn. Tôi có loại rượu Chambertin tuyệt hảo mà cha tôi đã để dành từ nhiều năm. Chúng ta sẽ làm vài chai cùng với bữa ăn. Có thể uống ngay bây giờ, trong khi vẫn còn…”. Paul im bặt. Anh nhặt những chiếc ly đã uống hết, thả chúng vào lòng rồi lăn xe ra quầy. Mel lại không thể nào nói năng được cho mạch lạc. Anh tìm chiếc khăn tay và hỉ mũi ầm ĩ. Anh nhìn qua đôi vai rộng và tấm lưng lớn của Paul nổi lên trên chiếc ghế, mắt anh mờ đi với nỗi buồn vô tận. Thật là đau lòng khi cái thân thể đẹp đẽ ấy bị vỡ nát một cách khủng khiếp như vậy, bộ mặt hết sức đẹp trai ấy bị biến dạng một cách ghê sợ. Và con người này chịu đựng tất cả những nỗi đau khổ ấy một cách khắc kỷ làm sao. Sự thán phục Mel luôn luôn dành cho người bạn thân nhất và xưa nhất của mình lại tăng thêm. Can đảm và sức mạnh phi thường của anh trước sự thất bại thật vô bờ. Anh tự hỏi không biết ở địa vị mình, mình có đủ dũng cảm và bất khuất như thế hay không. Anh không dám chắc. Có một điều anh biết, Paul cần tấy cả sự ủng hộ và anh sẽ làm bất cứ điều gì không một chút dè dặt. Cũng buổi tối hôm ấy, rất lâu sau khi Mel đã về, Paul ngồi trong phòng làm việc mờ mờ sáng, ấp ủ một vò rượu và hút thuốc không ngừng. Mặt anh bình tĩnh, đôi mắt tư lự khi nhớ cuộc nói chuyện trước đó. Có lẽ Mel đúng. Có lẽ anh nên viết thư cho Emma, kể cho nàng sự thật. Trong những lá thư trước, anh đã giảm nhẹ tai nạn và dùng công việc làm một cái cớ để giải thích sự chậm trễ quay trở lại Anh của anh. Phải, anh đã mắc nợ nàng điều đó. Sự thật. Vì tất cả những năm tháng bên nhau và vì họ vẫn còn có ý nghĩa đối với nhau. Và, phải là sự thật tuyệt đối. Không gì khác đứng nổi với Emma. Anh lăn xe đến bàn, kéo một tờ giấy đến bên và bắt đầu bức thư. Sydney, 24, tháng bảy, 1939 Emma thân yêu nhất đời anh Em là cuộc sống của anh… Đôi mắt anh ngước lên nhìn vào tấm ảnh nàng lồng khung ở góc bàn làm việc. Anh cầm nó lên, nhìn chăm chú. Ảnh chụp sau khi sinh Daisy, trông Emma rạng rỡ, nàng mỉm một nụ cười tươi chỉ riêng mình nàng có. Anh nghĩ tim mình muốn vỡ tung vì yêu thương, những giọt nước mắt bất chợt dâng lên mắt anh, nhỏ xuống má không sao ngăn được. Paul ấp ủ tấm ảnh vào ngực hồi lâu, ghì lấy nó như thể chính nó là Emma anh đang ôm trong vòng tay mình, nhớ tới quá khứ, nghĩ về tương lai. Và anh không viết lá thư đó.