Phòng khách trên gác của Adele Fairley tại sảnh đường Fairley gồm những đồ đạc cá nhân rất đẹp. Thế nhưng, dù vậy, nó không phải là một phòng đẹp. Nó không có sức sống và cảm giác giàn trải một cách kỳ lạ, một cảm giác lạnh lẽo toát ra một nỗi cô đơn hoàn toàn. Rõ ràng cảmgiác này không phải do cần có đồ đạc bày biện, bởi vì, trái lại, nó đầy đồ đạc rồi. Phòng khách vuông, rộng thênh thang, trần vòm như nổi trôi về nơi vô tận. Những đường gờ kết hoa và lá ôrô, phía giữa là trúc dài và treo pha lê óng ánh. Nhiều cửa sổ cao, uy nghi cắt ngang những bức tường và một lò sưởi kiểu Gotich của thế kỷ 18 bằng đá cẩm thạch phù hợp với bệ lò sưởi khổng lồ và những chiếc cột cuốn hài hòa. Hầu như tất cả mọi thứ trong phòng đều màu xanh. Màu xanh nhạt che tường, gợn sóng bên cửa sổ, phủ trên ghế sofa, trên những chiếc ghế mạ vàng và ngay cả tấm thảm cổ cũng màu xanh trên sàn gỗ tối sẫm. Những tấm gương để trang trí bằng pha lê, những vòm kính phủ hoa khô, quả bằng sáp, bộ đồ bằng bạc, đồ sứ vô giá, tất cả đều ánh lên một thứ ánh sáng lạnh, chỉ làm tăng cái giá băng của căn phòng. Một ngọn lửa cháy không nghừng trong lòng lò sưởi, những ngọn đèn trong chao ngọc bích và sứ đắt tiền hắt ra những tia sáng mềm mại, đồ đạc cổ óng ánh màu thẫm, thế nhưng tất cả những cái đó cũng không làm giảm cái không khí giá buốt và trong không gian một cảm giác bị bỏ rơi bàng bạc đâu đây. Nó nặng trĩu như bị ám ảnh, nó biểu lộ sự cố gắng tội nghiệp của một người đàn bà đơn côi, có những nỗi lo buồn canh cánh đang cố tìm nguồi an ủi trong của cải vật chất, toan tính gây dựng lại một tâm hồn tan tác bằng những đồ vật chứ không phải là con người, y như thể chúng cho nàng ảo cảnh của một cuộc sống vậy. Rất ít người đến phòng này mà cảm thấy thực sự thoải mái hoặc dễ chịu và ngay cả Adele nữa, kẻ thủ phạm duy nhất của tòa lâu đài đầy sự ngờ vực này, giờ đây cũng hình như lạc lõng và nổi trôi, một sự hiện diện ma quái, di chuyển qua những đồ tế nhuyễn của riêng tây mà nàng đã thu thập dày công phu, đầy khổ công mà hình như nàng không còn để ý tới nữa. Sáng hôm nay, nàng bước vào phòng một cách dè dặt, thận trọng dừng lại trên ngưỡng cửa phòng ngủ tiếp nối. Đôi mắt nàng, to đẹp nhưng lúc này đầy những chấm lo âu, vội vã lướt quanh phòng, những ngón tay quí phái của nàng nắm chặt tua của chiếc áo choàng tắm nàng đang mặc. Nàng khép chặt chiếc áo mỏng manh quanh người giữ gìn, liếc nhìn quanh rất nhanh, để biết chắc là chỉ có một mình trong phòng, không có một người đầy tớ nào rình mò ở xó góc tối xâm nhập vào sự riêng tư của nàng. Adele Fairley người cao duyên dáng nhưng cử động kiềm chế đến nỗi thỉnh thoảng nàng tỏ ra làm tất cả mọi việc một cách chậm chạp. Lúc này nàng cũng như vậy khi nàng rời ngưỡng cửa tranh tối tranh sáng, lướt vào trong phòng. Mái tóc vàng nhạt của nàng gần như ngả sang màu bạc, xòa xuống lưng thành từng suối tóc, hào vào chiếc áo lụa trắng như tuyết phủ lên thân hình nàng đến nỗi hầu như không còn phân biệt được đâu là tóc, đâu là lụa. Nàng dừng lại bên cửa sổ nhìn ra bên kia thung lũng, một vẻ xa xăm mơ màng trong mắt nàng. Vài hôm gần đây, phong cảnh đã thay đổi. Màu xám bụi màu đen âm thầm đã nhường chỗ cho những dấu hiệu đầu tiên của màu xanh mùa xuân. Nhưng Adele chỉ nhìn thấy mờ mờ y như qua một màn sương mỏng, lạc trong suy nghĩ và ưu phiền. Là một phụ nữ cô đơn tự trọng, nàng sống hoàn toàn cách biệt với thế giới xung quanh, nàng quên lãng ngoại giới một cách kỳ lạ. Cuộc sống nội tâm đã trở thành thực trạng duy nhất của nàng. Nàng đứng bất động bên cửa sổ, ánh sáng mặt trời tràn lên mặt, chiếu sáng những đường nét mềm mại. Mặc dù đã ba mươi bảy tuổi, nhưng vẫn còn có vẻ con gái và trong trắng trong con người Adele Fairley, nhưng đó là vẻ trong trắng của một bức tượng đá hoàn hảo bị cầm tù trong nhiều năm sau tủ kính, chưa từng được tình yêu sưởi ấm, đau khổ bởi sầu thương, hay xúc cảm vì một mối thương tâm. Đột nhiên, hoàn toàn bất ngờ và xa lạ với bản chất nàng, Adele quay ngoắt khỏi cửa sổ, hăm hở vì một mục đích. Nàng lướt nhẹ tới tủ đựng đồ đạc quí ở cuối tường bên kia, mắt long lanh. Đấy là một tủ kính Pháp đựng nhiều đồ quí mà Adele đã thu thập được trong những chuyến đi của nàng cùng Adam trong nhiều năm. Những thứ này có thời là niềm kiêu hãnh của Adele và nàng đã tìm thấy một niềm vui không dứt trong chúng, nhưng giờ đây, chúng không làm cho nàng thích nữa. Nàng đứng trước tủ kính nhìn quanh quất một cách lo ngại, rồi rút chiếc chìa khóa nhỏ từ trong túi ra. Khi nàng mở khóa, đôi mắt yêu kiều của nàng nheo lại đến độ làm mờ nhan sắc tuyệt vời của nàng. Nàng với vào bên trong tủ và cẩn thận nâng ra một chiếc bình thon cổ. Đó là chiếc bình thủy tinh Venide đỏ thắm lát bạc một cách tinh xảo, rất cổ và vô giá. Nó ánh lên trong nắng và hắt ra muôn vàn màu sắc lăng kính, nhưng Adele không dừng lại để chiêm ngưỡng nó như ngày xưa đã có một lần. Nàng vội vã mở nắp, với đôi bàn tay run rẩy, nâng chiếc bình lên đôi môi giá lạnh nhợt nhạt. Nàng uống một cách hăm hở, thèm thuồng như người chết khát, ngửa cổ từng chặp rồi khư khư ôm chặt chiếc bình, nàng nhắm mắt lại đầy lòng biết ơn rồi thở sâu. Khi chất lỏng ngấm dần dần qua người sưởi ấm nàng, thì nỗi kinh sợ ghê gớm trong cơ thể nàng bắt đầu giảm đi và nỗi lo ngại thâm căn cố đế luôn luôn hiện hữu mỗi lầm nàng trở dậy đón một ngày mới bắt đầu lùi xa. Một cảm giác no đủ, một trạng thái phớn phở tràn ngập cơ thể khi rượu thấm lục phủ. Nàng nhìn quanh căn phòng. Bây giờ trông nó đỡ thù hận, kinh hoàng và nàng bắt dầu cảm nhận được ánh mặt trời êm dịu ùa vào, ngọn lửa cháy sáng và những bông hoa mùa xuân trong bình. Nàng mỉm cười một mình lại nâng chiếc bình thon cổ. Chỉ một giọt chất lỏng chạm đầu lưỡi, nàng cầm chiếc bình giơ ra xa, lắc nó một cách thiếu kiên nhẫn, trợn mắt nhìn một cách tức giận và không tin là thật. Nó đã hết. - "Khỉ thật! Khỉ thật! Khỉ thật!". Nàng kêu to hung hăng, giọng đầy tức giận. Nàng nhìn lại chiếc bình. Đôi tay nàng bắt đầu run rẩy, thân thể nàng bỗng nhiên bị những cơn rét xâm chiếm. Đêm qua mình uống quá nhiều chăng? Nàng tự hỏi. Nàng kinh hoàng thấy rằng không thể nhớ lại được nữa. Rồi nỗi hốt hoảng ngày một tăng thực sự xâm chiếm lấy nàng, và với một cảm giác kinh hoàng, nàng hiểu tình trạng nguy cập của mình. Không còn rượu trong dãy buồng của nàng. Điều này làm nàng sợ đến tê dại. Dù cho nàng không bị cám dỗ muốn uống thêm nữa thì bao giờ nàng cũng vẫn cần biết chắc là còn có rượu để cho lòng được yên ổn. Nhưng bây giờ không còn lại một giọt nào nữa. Hơi lảo đảo, nàng lần mò như một người mù tới ghết, buông mình xuống, đầu óc trống rỗng. Vẫn ôm chặt chiếc bình thon cổ, nàng vòng đôi tay ôm lấy mình đu đưa, rên rỉ, kẹp trong gọng kềm của một nỗi lo âu vô bờ bến. Ôi trời, ôi trời! Mình sẽ làm gì? Mình sẽ làm gì? Nàng run lên, nhắm mắt lại, chạy trốn sự thật. Bộ mặt nàng tái xám, đầu ngửa ra sau ẻo lả, tóc nàng tung trên đôi vai, trông nàng nhợt nhạt, giống như một đứa trẻ. Cuối cùng nàng mở mắt ra: "Bé dịu hiền của má". Nàng vừa nói vừa cúi nhìn vào cái vật trong tay "Con cưng của má. Gerald con!" Nàng ngừng lại đăm chiêu nhìn xuống cánh tay mình. "Hay là Edwin!" Nàng gật đầu chầm chậm. "Tất nhiêh không phải là Gerald. Edwin rồi". Nàng bắt đầu rì rầm, lẩm bẩm một mình không rõ tiếng, vỗ về điên cuồng trong ghế. Khoảng một tiếng sau, Adele Fairley trải qua một sự biến động. Sự xúc động nắm giữ nàng trong gọng kềm của nó đã tan đi, nàng trấn tĩnh trở lại. Nàng liếc nhìn ra ngoài cửa sổ và nhận thấy trời đang mưa. Không phải là cơn mưa rào nhẹ điển hình ở Yorkshire mùa này trong năm, mà là mưa sầm sập. Những thác nước đập vào cửa sổ khi gió lớn nổi lên quất như điên dại vào cửa kính khiến nó rung lên và kêu lách cách. Cây quật vào không khí, những mảnh vườn rung lên dưới cơn giông gió. Chỉ những cảnh đồng lầy là không hề lay động vẫn đen tối và lầm lì, một đường phẳng đá nguyên khối màu đen vắt thách thức lên trời trắng nhợt. Adele rùng mình khi nàng nhìn vào chúng. Chúng dường như lúc nào cũng dữ tợn đối với con mắt miên man của nàng. Nàng nghĩ tới chúng như một bức tường giam vây lấy ngôi nhà này và cái làng, đóng nàng lại với thế giới bên ngoài. Nàng là một người xa lạ trong cái thế giới không quen biết này. Nàng rùng mình. Nàng lạnh. Tay chân nàng như những trụ băng. Nàng kéo chiếc áo khoác mỏng manh kín ngời, nhưng nó không ấm lên được chút nào. Nàng đau buồn khi thấy lửa đã lụi tàn chỉ còn lại mấy cục than hồng. Khi nàng đứng lên đi vào trong phòng, chân nàng đá phải chiếc bình thon cổ đã lăn xuống sàn từ lúc nào. Bối rối, nàng nhặt nó lên, tự hỏi không hiểu tại sao nó lại ở đây nhỉ? Tại sao nó lại ở trên sàn? Nàng xem xét nó một cách cẩn thận xem có vết nứt nào không. Thế rồi nàng nhận ra. Trước đây nàng đã đi tìm rượu và đã lấy cái bình ra khỏi tủ. Bao giờ nhỉ? Một tiếng, hai tiếng trước đây? Nàng không còn nhớ nữa, nhưng nàng nhớ lại hành vi của mình. Nàng hốt hoảng như vậy thật là ngốc nghếch. Nàng là chủ nhân của ngôi nhà này, nàng chỉ cần bấm chuông gọi Murgatroyd, ra lệnh cho anh ta mang cho nàmg một chai wishky, và một chai rượu mạnh, một cách kín đáo, như anh ta vẫn thường làm, như vậy Adam sẽ không hay biết. Tiếng lách cách của đồ sứ ở hành lang bên ngoài phòng khách báo hiệu cho nàn biết người hầu gái đang mang bữa sáng của nàng tới gần. Vội vã, Adele để chiếc bình thon cổ trở lại tủ, khóa lại, lướt ra khỏi phòng mau lẹ khác thường, chiếc áo choàng tắm phồng lên phía sau giống như đôi cánh nhiều màu, tóc nàng xõa xuống lưng từng dòng suối bạc. Nàng đón cửa phòng ngủ lại khe khẽ, tựa vào cửa và mỉm một nụ cười mãn nguyện. Nàng phải chọn một chiếc áo buổi sáng, một chiếc áo lịch sự, ăn sáng xong, nàng sẽ sửa sang lại tóc và mặt. Rồi nàng sẽ cho gọi Murgatroyd. Khi nàng đi lại tủ áo, nàng tự nhủ mình phải cố nhớ rằng ình là chỉ Fairley Hall, chứ không phải là ai khác. Nàng phải khẳng định mình. Ngay ngày hôm nay. Cô em Olivia của nàng đã tử tế đảm nhiệm bao nhiêu là nhiệm vụ quản lý nhà cửa từ khi cô đến vào tháng hai, nhưng bây giờ cô sẽ phải thôi,. "Mình cũng khỏe đủ để chăm lo công việc rồi", Adele nói to, và nàng thực sự tin những lời của mình. Phải, như vậy sẽ làm Adam hài lòng, nàng quyết định như vậy. Cổ họng nàng thắt lại khi nghĩ tới chồng. Nàng cau mặt. Nhưng như vậy có làm anh ấy hài lòng không? Anh ấy cho nàng là đồ ngốc và hoàn toàn không giống cô em, người mà anh ấy coi à một cái mẫu hoàn hảo dưới ánh mặt trời này. Gần đây nàng đã nghĩ tới Adam là một con người hết sức dè dặt lãnh đạm. Nàng rùng mình. Những tuần lễ gần đây, nàng cũng nhận thấy một cách sợ hãi nỗi hăm dọa trong mắt anh ta. Không phải chỉ có thế, anh luôn luôn nhìn nàng băng đôi mắt xám nhạt. Olivia cũng thế. Họ không biết điều đó, nhưng nàng thấy họ nhìn nàng một cách thèm thuồng và thì thầm với nhau ở một góc. Họ kết hôn với nhau. Họ bày mưu tính kế chống lại nàng. Chừng nào mà nàng còn biết là họ đang bày mưu tính kế, thì họ còn chưa làm hại được nàng. Nàng phải cảnh giác đối với họ trong mọi lúc. Adam, Olivia, những kẻ thù của nàng. Nàng bắt đầu lôi ra hết chiếc áo này đến chiếc áo khác, điên cuồng, và với một nghị lực siêu phàm, nàng vất bừa bãi cả lên sàn. Nàng đang tìm một chiếc áo đặc biệt. Đó là một chiếc áo có hoa đặc biệt. Khi nào nàng mặc nó vào, nàng sẽ tự nhiên lại trở thành bà chủ của ngôi nhà này, điều ấy thì nàng hoàn toàn chắc chắn. Nàng biết chiếc áo ở đó. Nó phải ở đó... Trừ phi... trừ phi là Olivia đã ăn cắp mất... cũng như cô ta đã ăn cắp địa vị chủ nhân của nàng ở Fairley Hall. Nàng tiếp tục lôi những áo và quần áo khác một cách điên cuồng, quăng chúng lên sàn cho đến khi tủ áo hoàn toàn trống trơn. Nàng nhìn chúng chằm chằm một hồi lâu, rồi lơ đãng nhìn xuống chồng lụa và xatanh, nhiễu, sa nhung, len quấn quýt vào nhau thành một đống đầy màu sắc dưới chân nàng. Tại sao tất cả những áo tắm, áo buổi sáng, quần áo dạ hội lại nằm ngổn ngang trên sàn nhỉ? Nàng đang tìm cái gì vậy? Nàng không thể nhớ được nữa. Nàng giẫm chân lên, bước qua phòng tới chiếc giường đứng gần cửa sổ. Nàng đứng trước gương, đùa với mái tóc của mình một cách lơ đãng, nâng nó lên trên đầu, rồi để nó rơi chầm chậm đón lấy ánh nắng, làm đi làm lại nhiều lần. Mặt nàng trống rỗng, hoàn toàn không xúc phạm, nhưng ánh mắt nàng ánh lên mê sảng.