áy bay khu trục Pháp đã xuất hiện trên vùng trời Thái Bình, và đã bỏ bom, bắn đạn đum đum xuống chợ huyện Tiền Hải, Quỳnh Côi, Phụ Dực. Nhiều người chết cháy, chết văng đầu một nơi, chân tay một nẻo. Lòng căm thù giặc lại được đốt cháy ngùn ngụt. Chợ búa họp từ năm giờ sáng, đến chín giờ phải tan, vì sợ máy bay giặc oanh tạc. Dân chúng khắp tỉnh học tập đào hầm hố, các hầm núp máy bay. Làng Tường An phát động phong trào thi đua, mỗi người một hố cá nhân. Hố cá nhân đào giống cái hang ếch, miệng nhỏ, dưới rộng, vì đạn đum đum ghê lắm. Nổ những hai lần! Máy bay giặc, có thể, bỏ bom cả ban ngày lẫn ban đêm. Sân đình, sân chùa, và chung quanh các trụ sở đều nhan nhản hầm hố. Học trò nhà quê thử chạy máy bay, mỗi hôm một lần, như hồi xưa ở thị xã người ta tập phòng thủ thụ động. Vườn tược nhà nào, nhà nấy đầy hố chữ chi, hố cá nhân. Dân làng chưa hề bị chạy trốn máy bay thật. Chuẩn bị. Trong kháng chiến, mọi việc thường xuyên chuẩn bị. Chuẩn bị, những con đường vắng vẻ nhất cũng nhằng nhịt hầm hố. Đi đêm, vô ý, ngã xuống hố như bỡn. Con đường ngập ánh trăng của Khoa không còn nguyên vẹn nữa. Khoa khó mà khoác vai Liên bước song song.Mùa mưa tới rồi. Máy bay Pháp chỉ oanh tạc Tiên Hưng, Thái Ninh, Duyên Hà, những phủ, huyện bên kia sông Trà Lý. Sự lo ngại máy bay của dân làng Tường An, dần dần, tan biến. Bây giờ, hố cá nhân đầy nước, là cái bẫy ếch. ếch nhảy xuống hố, không thể lên được. Nhiều hố cá nhân lềnh bềnh phân của nhi đồng nghịch tinh. Ngồi trên miệng hố mà đi đồng, thì sướng nhất trần đời. Nếu bị du kích bắt gặp, chắc chắn sẽ bị khép tội phản động.Du kích và dân quân, dạo này, canh gác ráo riết. Người làng bên cạnh, dù quen mặt, vào hay ra khỏi Tường An đều bị hỏi chứng minh thư. Du kích bắng nhắng lắm, cứ tưởng chính mình làm cách mạng mùa thu.Khoa vẫn đi học, và, đêm đêm, vẫn sinh hoạt nhi đồng. Lớp Bình dân học vụ của Khoa tạm nghỉ. Học trò bận việc mùa lúa chiêm. Mình được nghỉ hè, Liên đã nói với Khoa thế. Nghỉ hè không sung sướng chút nào. Khoa không còn gặp Liên, mỗi tối. Khoa phải thay anh Lý, chỉ huy nhi đồng Tường An. Họp liên miên. Nhiều hôm, Khoa bỏ cả học, để lên xã họp. Học không quan hệ bằng họp. Tự nhiên, Khoa xa Liên, dù rất gần Liên.Tối nay, Khoa chủ tọa buổi họp nhi đồng toàn thôn, để phổ biến tin tức mật thiết, liên quan tới đời sống của từng ngưòi. Đó là tin giặc Pháp sẽ nhảy dù xuống Thái Bình. Các đồng chí nhi đồng chất vấn hăng đì.- Đồng chí chủ tọa cho biết giặc Pháp nó nhảy dù ra sao?- Nó từ máy bay nhảy xuống.- Nó ôm cái dù à?- Đúng.- Có đứa nào cầm cái ô hay cái lọng không?Khoa chưa biết nhảy dù thế nào. Nó đã xem xi nê, toàn phim cao bồi, Tác Dăng, Dô Rô. Xã nói giặc sắp nhảy dù, thì nó về phổ biến lại. Khoa là con vẹt. Có lẽ xã cũng là con vẹt.- Tôi không rõ.- Đồng chí đã họp cấp xã mà?- Xã chỉ nói giặc nhảy từ máy bay xuống bằng dù. Chúng ta phải học tập giết quân nhảy dù của giặc.Khoa rút ở túi quần ra tấm giấy năm đồng, mầu hồng nhạt. Cán bộ xã nói sao, Khoa nói lại y hệt:- Các đồng chí có hiểu tại sao tờ giấy bạc này in hình người đàn bà cấy lúa và đứa bé con không?- Không.- Hai mẹ con bà này là chiến sĩ giết quân nhảy dù Pháp. Giặc từ máy bay nhảy dù xuống, chết ngất hàng mười phút mới tỉnh dậy. Một hôm, giặc nhảy dù xuống thửa ruộng hai mẹ con bà này đương cấy lúa. Đã được học tập, hai mẹ con bà này dùng dao đâm chết quân nhảy dù Pháp, khi nó còn ngất. Chính phủ ghi công hai mẹ con bà, in ảnh vào giấy bạc, để mọi người hoan hô.Nhi đồng quên mình đang họp, giơ tay hô khẩu hiệu: Hoan hô hai mẹ con giết giặc, loạn xà ngầu. Chủ tọa Khoa yêu cầu trật tự, rồi nói tiếp:- Chúng ta không sợ giặc nhảy dù. Nó rơi xuống đất chết ngất những mười phút, là ta thừa sức tiêu diệt nó.- Thật chứ?- Thật. Bác Hồ dạy hẳn hoi mà.- Đả đảo giặc Pháp! Hồ chủ tịch muôn năm!Khẩu hiệu hô toáng. Chủ tọa Khoa đành chờ đợi.- Muốn tiêu diệt quân nhảy dù Pháp, toàn dân phải chuẩn bị khí giới sẵn sàng. Mọi người phải mang theo khí giới, bất cứ đi đâu.- Đi chợ có mang khí giới không?- Có.- Đi tắm?- Có.- Còn đi ỉa?- Cũng phải mang. Khí giới giết quân nhảy dù Pháp là dao găm.- Bà già cần mang dao găm không?- Cần.- Bà già mà giết giặc ở cái khổ nào?Buổi họp chấm dứt, không có mục linh tinh, phê bình. Khoa thẫn thờ về. Con đường quen thuộc, con đường Khoa thường đi bên cạnh Liên, nhiều hố cá nhân quá. Khoa dừng, ở cầu Chờ, nghỉ chân, và suy nghĩ. Nó muốn theo Đường về nhà, đánh thức Liên dậy, rủ Liên ra cổng, hít hà hương thơm của hoa đêm. Đã quá khuya. Khoa nằm dài trên phiến đá nhẵn bóng, tưởng tượng Liên ngồi đâu đây, đang nghe Khoa kể tích cầu Chờ. Một lát, Khoa vụt dậy, vùng chạy ngay về nhà mình.Mấy hôm sau, Tường An nhộn nhịp chuyện giết giặc nhảy dù. Anh thợ rèn đầu làng làm ngày làm đêm, không hết việc. Dân làng phải xuống chợ Mễ, lên chợ Giai đánh dao găm. Chừng nửa tháng, du kích hỏi khí giới dân chúng. Đi chợ quên mang theo dao găm, phải trở về lấy, đề phòng giặc nhảy dù. Đi học, đi chơi, đi đánh dậm, đi gắp phân cũng phải giắt dao găm. Đội gạo, dao găm để trên thúng gạo. Đi xe đạp, dao găm giắt dưới yên xe. Ai không có dao găm là Việt gian, phản động. Nuốn được tổ quốc ghi ơn, hãy noi gương mẹ con người cấy lúa, ở tấm giấy năm đồng. Dân chúng bình tĩnh chờ đợi giặc nhảy dù, để giết giặc lập công. Không sợ máy bay giặc, vì đã sẵn hầm hố. Không sợ giặc nhảy dù, vì đã sẵn dao găm. Giặc nhảy dù, chết ngất mười phút, một khúc cây đã thừa đủ giết giặc, như giết ngóe. Tiếng súng đại bác của giặc, đêm đêm vọng sang, đã trở thành trò đùa. Dân làng vui vẻ thi đua, tăng gia sản xuất. Những đêm họp thưa dần. Đời sống có lẽ bình yên mãi, cho tới ngày kháng chiến thành công. Khoa sung sướng được rảnh rang gặp Liên.Trưa nay, Khoa hẹn Liên đi câu. Nó đã làm mồi, rang cám, lo hai chiếc cần cây. Khoa ngồi vắt vẻo trên cành sung cao nhất. Nhờ đám lá dầy, Liên sẽ không thấy Khoa. Nó đã vặt sung chín bỏ đầy túi, chờ Liên đến, là ném trêu Liên. Bây giờ, cu cậu bửa một quả sung, ném xuống ao, nhử đán cá rói. Mùi sung chín thơm, bắt thèm ăn. Nhưng đừng ăn. Ăn chán lắm. Mầu sung chín đẹp mắt lạ lùng. Buổi trưa, quê hương êm ả. Đã sang hạ rồi. Tiếng võng đưa kẽo kẹt. Tiếng khóc nhè của trẻ thơ. Tiếng ru hạ hơi hơi, hạ hời hời. Tất cả đã quyện lấy nhau, lan toả, và kéo dài một nỗi niềm thiết tha muôn thuở. Từ ngày tản cư về làng, hôm nay Khoa mới biết nghe và cảm tiếng quê hương. Tại Khoa vừa biết hẹn hò đứa con gái.Khoa mơ mộng vẩn vơ, quên mình đang ngồi trên cành sung cao, quên cả Liên đã tới. Khoa tiếp tục đùa với cá rói. Liên không hay Khoa ngồi vắt vẻo trên cao. Con bé nói một mình:- Nhiều cá ghê!Khoa giật mình. Liên chưa biết chỗ Khoa núp, con bé chẳng ngờ Khoa ngồi trên cành sung. Liên đứng nhìn đàn cá rói nhỏ tranh nhau mẩu sung chín. Khoa ngắm Liên. Nó móc một trái sung ném xuống. Trái sung trúng người Liên. Khoa ném trái thứ hai. Liên ngờ ngợ. Con bé biết rồi. Nó giả vờ cúi lượm một viên đất. Ném lên:- Liên mà có súng cao su, Khoa chết.Khoa phá ra cười:- May quá, con gái không bắn súng cao su.Liên hỏi:- Chờ lâu không?Khoa đáp:- Ăn gần hết sung ở cây này rồi.Liên bĩu môi:- Cá ăn, chứ Khoa ăn bao giờ?Khoa vừa trèo xuống, vừa nói:- Cả cá lẫn Khoa cùng ăn.Hai đứa vào vườn ông đồ Nhị. Cây ngâu đầy hoa vàng. Hoa ngâu tròn và to hơn trứng cá. Khoa chụp bàn tay, vuốt một vốc hoa ngâu, rắc đầy đầu Liên.- Hoa ngâu thơm ngát.Liên nhìn Khoa:- Rắc công phét ti lên tóc Liên, đấy hở?Khoa quay đi chỗ khác:- Giá có cái gương nhỉ!- Làm gì?- Để Liên soi. Đẹp lắm.- Như thế nào?- Tóc đen lấm tấm hoa vàng, đẹp không chịu được. Liên đừng gội đầu, nhé! Để tóc thơm mùi hoa ngâu.- Hoa ngâu. Liên sẽ nhớ tên nó.- Liên phải nhớ tên một thứ hoa nữa.- Hoa gì đấy?Khoa dẫn Liên tới cây mẫu đơn. Những chùm hoa đỏ nhạt trông quyến rũ lạ lùng. Khoa nhón hai ngón tay, rút một cái nhụy hoa. Nhụy hoa mẫu đơn, giống hệt cái hoa tai. Cánh dài, rỗng, và trong chứa mật ngọt. Khoa đưa cho Liên:- Cắn cái cuống đi.- Làm gì?- Làm con ong hút mật.Liên làm theo lời Khoa. Con bé khẽ mút. Rồi bảo:- Chả ngọt gì.Khoa cười:- Tại Liên tới chậm hơn ong đó. Muốn ngọt, sáng mai đến thật sớm. Khoa đuổi ong, để Liên hút hết mật hoa.- ừ nhé! Mà tên hoa này là gì?- Mẫu đơn. Có cả mầu vàng, mầu hồng nữa. À, hồi nhỏ, mẹ Liên có xỏ lỗ tai cho Liên không?- Có.- Thế thì Liên để Khoa lấy nhụy hoa mẫu đơn làm hoa, đeo giùm Liên.- Để mai.- Mai, nhớ đem theo sợi chỉ dài. Khoa xâu cho Liên vài xâu nhụy hoa mẫu đơn, Liên quàng cổ mới đẹp. Một xâu đỏ, một xâu vàng, một xâu hồng. Bây giờ, mình đi câu nhé!Hai đứa trở ra ngõ. Đi một lát, Liên hỏi:- Khoa có học bài Câu cá trong cuốn Quốc văn giáo khoa thư không?Khoa thong thả đọc:- Những ngày chủ nhật, tôi thưòng theo anh tôi di câu cá. Anh tôi vác cần đi trước. Tôi cầm mồi và xách giỏ theo sau...Liên khen:- Khoa nhớ ghê. Có chắc câu cá đầy giỏ, đem về kho ăn ba bốn bữa không hết không?Khoa nói:- Cần gì câu đầy giỏ...Chỉ cần ngồi cạnh Liên. Khoa muốn nói tiếp thế. Mà Khoa đã chẳng nói được. Tại sao Khoa ngập ngừng? Khoa đã làm chủ tọa nhiều cuộc họp quan trọng của thiếu nhi xã. Và, Khoa nói như con vẹt, với các đồng chí nhô con. Khoa không thể nói như con vẹt với Liên.- Đồng chí Khoa!Liên cười khúc khích. Khoa hơi khó chịu. Nó không muốn trở thành đồng chí của Liên. Chỉ muốn là bạn. Bạn suốt đời. Khoa nhăn mặt:- Đừng gọi Khoa là đồng chí. Nếu Liên thích, Liên cứ gọi Khoa là cu Khoa.Liên lắc mạnh cái giỏ:- Cu đồng chí Khoa, nhé!Khoa dậm chân:- Khổ lắm, cu Khoa thôi.Liên trêu thêm:- Cu đồng chí mới hay. Như đồng chí cu Đường ấy. Nó đã gọi Liên là đồng chí Liên.Khoa tức quá, nói liều:- Liên còn gọi Khoa là đồng chí, Khoa không thèm đi câu nữa.Liên nài nỉ:- Thì thôi, cu Khoa.Khoa mỉm cười. Nụ cười ấy, Liên không hề biết. Con chim liếu tiếu, từ đâu bay tới, đậu trong bụi ruối, tíu tít một hồi. Tiếng chim liếu tiếu náo động một xóm quê. Như tiếng lòng Khoa, đang náo động một khoảng đời. Hai đứa trẻ chơi trò anh tôi vác cần đi trước, tồi cầm mồi và xách giỏ theo sau... Chúng đi câu. Đi câu trăng, câu sao. Chúng đi câu mộng ước.78Chuyện giặc Pháp nhảy dù rồi cũng bị quên đi, như bao nhiêu chuyện khác. Mỗi gia đình đã có, ít nhất, hai con dao găm. Dao găm, thứ dao mới lạ, bỗng trở thành quen thuộc với đời sống của mọi người. Cùng với sự quên lãng đề phòng giặc nhảy dù, du kích cũng quên công tác tiêu diệt chó là yêu nước. Những con chó trốn thoát cuộc tàn sát tập thể đã lần mò về nhà chủ, tiếp tục sủa bâng quơ, và sinh đẻ. Làng thôn bớt ghê rợn đêm khuya. Bây giờ, khẩu hiệu mới: Chuẩn bị tổng phản công, Tích cực chuẩn bị tổng phản công... Quân Pháp sắp thua đến nơi. Tích cực chuẩn bị tổng phản công, đàn bà, con gái phải khuyến khích chồng con tòng quân. Tòng quân là yêu nước. Câu thơ mới viết khắp tường đình, tường miễu:Đêm nay anh đi đánh TâyCửa nhà cậy có bu mày trông coiLàm chi khóc lóc lôi thôiCó vợ ai tồi như thế hay khôngChuẩn bị tổng phản công, thanh niên phải lên đường hàng tháng xa gia đình, đắp ụ, đào đường. Bài thơ Phá đường, ai nấy đều thuộc:... Hì hà hì hụcLục cục lào càoAnh cuốc em cuốcĐá lở đất nhàoNào anh bên traiNào em bên nữTa cùng thi sức ai tài hơn aiAnh tài thì em cũng tàiĐường dài ta xẻ sức giai ngại gì...Đêm nay gió rét trăng luRộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường [27]Làng Tường An bắt đầu phát động cuộc thi đua mới: Thi đua tòng quân. Nhiều anh du kích quẳng mã tấu, xung phong tòng quân. Nhiều chị phụ nữ vất súng gỗ, xung phong đi làm nữ cứu thương, đi đào đường đắp ụ. Những người ở lại xung phong góp lúa nuôi bộ đội. Nhi đồng xung phong tới các chợ gắn huy hiệu, lấy tiền nuôi thương binh. Phụ lão xung phong làm mẹ nuôi bộ đội. Thương binh được mô tả là những người hy sinh cho tổ quốc, dân tộc nhiều nhất:Anh em thương binh mang nặng lòng bao nhiêu đau thươngAnh em thương binh quên mình từng phơi trong phong sươngChí vẫn không quên lửa hận ôi căm hờnVì bọn thực dân nên dân chúng bị tàn sátXông pha gian lao song lòng anh nao nung chíHoa xuân đang tươi tưng bừng hy sinh anh ra điHiến tấm thân cho tổ quốc anh tươi cườiNặng lòng hy sinh đem xương máu hiến cho đờiĐạn reo khiến chí anh càng hăng háiVùng lên như anh muốn quyết xông pha...Khoa đã hướng dẫn nhi đồng đi quyên tiền, ủng hộ anh em thương binh. Trong kháng chiến, không ai là không có trách nhiệm. Khoa say sưa thi hành mọi công tác. Không bao giờ quên Liên. Dường như, Khoa có hai cuộc đời. Cuộc đời của tập thể, và cuộc đời của riêng Liên. Nó muốn, mãi mãi, được sống như thế.Mùa hạ qua. Mùa thu sang. Mùa đông tới. Mùa xuân về. Làng xóm vẫn bình yên. Máy bay khu trục đen thui chỉ bay thật cao, trên vùng trời Tường An. Bay qua. Giặc sợ hãi không dám nhảy dù. Khoa cũng chẳng biết giặc đã nhảy dù ở Việt Bắc, đã đuổi giạt bộ đội và chính phủ ta vào tận rừng sâu, nước độc. Làng Tường An chưa ăn bom đạn giặc, là bộ đội đang chiến thắng. Gần ba năm sống đời kháng chiến xa nhà nhịp theo đời sống mới, biệt ly thành phố rực rỡ ánh đèn điện, Khoa yêu đời sống áo nâu vô cùng. Thôn ổ dạy Khoa nhiều thứ, cho Khoa nhiều thứ. Khoa lớn vội, và Khoa cảm xúc nhanh. Tâm hồn Khoa mở rộng. Hương đồng gió nội ùa ngập, cùng với mộng ước êm đềm. Mộng ước đó, mỗi ngày, một thắm đặm, tưởng không bao giờ tàn phai. Nếu kháng chiến thành công, nếu giặc Pháp đừng bén mảng sang Thái Bình, mộng ước sẽ no tròn. Bàn tay Khoa sẽ nắm gọn mộng ước đó. Mộng ước làm người dân của một nước độc lập. Mộng ước được sống hoài với kỷ niệm tuyệt với, trên mảnh đất quê hương mình.Khoa chợt nhớ tới anh. Nó chỉ biết Vũ đi kháng chiến, vì căm thù giặc Pháp. Khoa chưa hiểu tâm sự của Vũ. Cũng chưa lần nào, Vũ nói cho Khoa nghe tâm sự mình. Vũ không căm thù gì cả. Vũ đi chiến đấu, với mộng ước đơn giản, là được trở về thị xã, cùng với mọi người, xây lại căn nhà đã bị tiêu thổ, trồng lại những hàng cây hồi bị chết, và gần gũi Thúy, yêu Thúy, yêu suốt đời.Những ngày đầu tiên rời bỏ thị xã, Khoa buồn lắm. Vũ thì khỏi nói. Vũ trốn nhà theo bộ đội. Khoa bị quyến rũ bởi nguồn vui mới, mỗi lúc mỗi dâng trào. Khoa yêu cuộc đời hậu phương kháng chiến. Ở cuộc đời này, cái gì cũng đẹp, cũng mộng mơ. Sự phiền muộn thoáng qua, rồi chìm vội. Nếu Khoa lớn hơn, đủ tuổi vào bộ đội, chẳng hạn, Khoa sẽ thấy chuỗi ngày hậu phương kháng chiến là chuỗi ngày đẹp nhất, rực rỡ nhất, hào hùng nhất của lịch sử tranh đấu của dân tộc. Đây thời chinh chiến ngập ngừng lá nhớ hoa. Chưa có cuộc chiến đấu nào lãng mạn đến thế. Tiếc rằng, Khoa còn bé, nên Khoa mới cảm nổi con đường đêm ngập ánh trăng, Khoa và Liên đã sóng đôi bước chậm, nghe gió luồn qua lá những tiếng thầm thì.- Khoa ơi!Tiếng cu Đường gọi. Khoa phớt tỉnh, vẫn ngồi ở cầu ao xem đàn cá mương tranh nhau cái phổi gà. Đường léo nhéo:- Tụi Đại Đồng đang phơi nắng chờ mày đó, Khoa ơi!Đường đã chạy vào sân nhà Khoa:- Mày đâu?- Tao đây, đồng chí cu Đường!Đường nhìn xuống cầu ao, toe toét:- Không đồng chí, đồng chóe gì xất. Ngoài cuộc họp, đồng chí cái dồng điếu! Chúng nó đợi mày, mắt viền vải tây điều hết rồi. Này không đến ngay, tụi Đại Đồng bỏ về, là, tự nhiên, Tường An thua bét tĩ.Khoa chợt nhớ đã hẹn thiếu nhi Đại Đồng đá bóng tại bãi tha ma, chiều nay. Cái bãi tha ma, kể từ hôm thanh niên Tường An xuống Ô Mễ xem trận thư hùng giữa hai đội Vũ Tiên và Thư Trì, đã biến thành sân vận động, có thể tập trung hết dân làng biểu tình đả đảo thực dân Pháp. Phong trào thể thao bình dân rất thịnh hành. Ruộng khô còn đầy gốc rạ, cũng là bãi bóng chuyền hay bóng tròn. Thanh niên Tường An san bằng bãi tha ma, đem trục đá kéo lúa tới, lăn phẳng mặt bãi, đẵn cau, trồng cột gôn. Chỉ cần một trái bóng da, mỗi bên đủ mười một người. Đá văng mạng. Đá không luật lệ. Chạy hàng tiếng. Đá bóng chán chê, về ao đình bơi lội. Thân thể khỏe mạnh, dẻo dai, để trường kỳ kháng chiến. Sợ gì đại bác tầu bay, Bền gan kháng chiến là Tây phải hàng. Bãi tha ma, một dạo, đã vắng hoe, vì dân làng bận lo học tập chống quân nhảy dù Pháp, bây giờ, lại bắt đầu nhộn nhịp. Cùng với sự nhộn nhịp đó, dân làng tổ chức nhiều cuộc vui khác, tưởng chừng giặc Pháp sắp thua, chẳng còn hy vọng gì chiếm Thái Bình.Khoa muốn hạ tụi thiếu nhi Đại Đồng, chiếm lại ngôi chùa của làng Tường An. Khoa muốn làm ông tiên, ông tiên đá bóng chiến như Vọng, như Vũ, như Côn, như Luyến... Và, Khoa viết thư mời tụi Đại Đồng, giao hẹn hễ Đại Đồng thua thì phải nhường ngôi chùa cho thiếu nhi Tường An, đêm đêm, tới họp hành, và tập kịch, tập trống. Thư mời không nói đến chuyện nếu Tường An thua, mà chỉ có một câu khích bác, là Đại Đồng sẽ đem rổ đựng trứng thối. Khoa tưởng tụi Đại Đồng không nhận lời.- Nhanh lên mày!Cu Đường giục nhắng. Khoa hỏi:- Có bóng chưa?Đường đáp:- Rồi. Năm quả bòng, nướng mềm nhũn, còn nóng sốt sồn sột...Khoa đưa tay vuốt tóc:- Mình sẽ chiếm lại chùa.Nó bước lên, và cùng đồng chí cu Đường thân mến co cẳng chạy. Tới cầu Chờ, Khoa phanh chân. Đường ngơ ngác:- Mày đứng lại làm gì đây?- Có con Liên ngoài bãi không?Đường dậm chân, vò đầu:- Liên, Liên, Liên cái...Khoa bịt mồm Đường:- Yêu cầu đồng chí đừng nói nhảm.Đường toét mệng:- Nó chờ mày cháy bố nó hết tóc rồi.Khoa đẩy nhẹ Đường. Khuôn mặt nó tươi như ngọn cỏ ngậm sương. Nó lại co cẳng chạy. Chẳng mấy chốc, hai đứa đã tới bãi tha ma. Nhi đồng Tường An hoan hô Khoa vang lừng. Khoa tỉnh bơ, đảo mắt đây đó tìm kiếm, xem Liên đứng chỗ nào. Không thấy Liên đâu. Không hề thấy một đứa con gái. Nó chộp cánh tay Đường:- Mày dám nói dối tao.Đường cười xòa:- Nó bảo nó sẽ tới coi mày sút thủng côn Đại Đồng. Thế nào nó cũng tới.Khoa buông tay Đường ra, dọa dẫm:- Nó không tới, mày biết tay tao.Như là Vọng năm xưa, Khoa đang đóng vai trò của Vọng. Như là đội bóng của Vũ năm xưa, Tường An đang cổ võ, hối thúc, và tin tưởng Khoa sẽ đè bẹp Đại Đồng. Khoa cởi áo vất xuống bãi. Đường trịnh trọng nhặt lên. Khoa chạy vào sân bóng. Những đôi mắt long lanh theo rõi nó. Cuộc giao đấu bắt đầu. Không trọng tài. Tiếng hoan hô gà nhà, đả đảo gà người lấn át cả tiếng bịch bịch của chân cẳng đá nhau, đá ban bòng nướng. Khoa vừa tranh đấu, vừa ngó xem con Liên đã tới chưa. Đại Đồng xuýt làm bàn đôi ba lần. Tường An hò hét Khoa, thúc giục Khoa. Nó chả nghe thấy gì. Khoa không thiết đá bóng, không say mê chiến thắng. Nó đón hụt bóng liên miên, và toàn sút ra ngoài. Bỗng, đồng chí cu Đường hét lớn:- Con Liên đã tới.Khoa nhảy cỡn lên. Quả bóng nướng, vô tình, rót vào tầm chân nó. Khoa đá được trái song phi tuyệt cú mèo. Mắt sáng rực, Khoa ngó Liên đương vẫy tay chào nó. Khoa phấn khởi vô cùng. Nó xung phong đá bóng. Xung phong như bộ đội xung phong giết giặc Pháp. Và, Tường An cho Đại Đồng nhặt trứng thối. Tiếng hoan hô vang dậy. Đại Đồng tiu nghỉu rút lui.Ngay buổi tối hôm ấy, nhi đồng Tường An đã vác trống đồng sang ngôi chùa làng mình bị ông tiên hạng bét đánh cờ thua, mà khua ầm ỹ. Một ông tiên cừ khôi đã lấy lại chùa cũ. Ông tiên đó là Khoa, là Kim Đồng, là tuổi thơ lồng lộng và thần thánh của Việt Nam kháng chiến chống xâm lăng. Ông tiên mê gái. Ông tiên chiến thắng nhờ gái. Ông tiên chẳng hề biết điều ấy.