Kunta đã đếm được bốn ngày, ba đêm trong lều. Và mỗi đêm, anh đều nằm nghe tiếng hát từ những lều gần đó bay sang – và càng cảm thấy mình càng Phi hơn bao giờ hết, kể cả hồi còn ở ngay làng quê. Họ là cái loại người đen gì mà lại hát cho qua thì giờ tại đây, trên đất của bọn tubốp, anh nghĩ thầm. Anh băn khoăn không biết có bao nhiêu người đen kỳ lạ này trên toàn bộ đất tubốp, nhưng con người dường như không biết hoặc không cần biết mình là ai, hoặc là cái gì. Kunta cảm thấy gần gũi đặc biệt với mặt trời, mỗi lần hừng đông. Anh nhớ lại lời ông già từng là thủ chỉ đã nói trong hầm tối con xuồng lớn: “Mỗi ngày, vầng thái dương mới lại nhắc ta rằng mặt trời mọc ở Châu Phi chúng ta vốn là cái rốn của trái đất”. Mặc dầu chân tay bị bốn sợi xích căng ra, anh đã tập cho đến khi học được cách nhích lưng và mông từng tí một, tới tới, lui lui, để xem xét kỹ hơn những vành sắt nhỏ nhưng dày, giống như vòng đeo tay, bắt chặt các sợi xích vào bốn cột ở bốn góc lều. Những cột này to bằng bắp chân dưới anh, và anh biết chẳng có hy vọng gì làm gẫy được hoặc kéo bật được cái nào lên khỏi nền đất nện rất chắc, vì phần trên cột xuyên qua cả mái lều. Bằng mắt rồi bằng ngón tay, Kunta thận trọng xem xét những lỗ nhỏ ở những vòng sắt dày nọ, anh đã thấy bọn bắt anh tra một cái gì hèm hẹp bằng kim khí vào lỗ ấy và vặn đánh tách một cái. Hễ lắc một cái vòng là xích lại kêu loảng xoảng khá to khiến người ngoài có thể nghe thấy cho nên anh từ bỏ cách ấy. Anh thử cho một cái vòng vào mồm và ráng hết sức cắn thật mạnh, cuối cùng, một cái răng gãy, đau buốt đến tận óc. Kiếm một chút đất kha khá hơn đất nền nhà để làm bái vật cầu ma quỷ, Kunta lấy ngón tay cạo ra một mẩu bùn khô cứng đờ đỏ trát giữa những thoi gỗ. Thấy trong cục bùn có những sợi lông đen ngắn, anh tò mò xem cho kỹ; khi nhận ra đó là lông của giống ủn ỉn bẩn thỉu, anh vứt tuột đi và chùi sạch bàn tay đã cầm nó. Buổi sáng thứ năm, tí chút sau tiếng tù và báo thức rúc lên, gã da đen bước vào và Kunta căng người ra khi thấy cùng với chiếc dùi cui ngắn bẹt thường lệ, thằng cha còn mang theo hai chiếc còng sắt dày. Hắn cúi xuống khóa hai cổ chân Kunta vào còng nối liền với một dây xích nặng nề. Xong đâu đấy, hắn mới lần lượt tháo bốn sợi dây xích căng chân căng tay Kunta. Cuối cùng được tự do cử động, Kunta không đừng được bật dậy – chỉ để đón quả đấm chờ sẵn của tên da đen đánh quỵ xuống. Kunta đang rướn người đứng trở lại, thì một bàn chân đi ủng thúc rất ác vào mạng sườn. Vừa đau vừa tức điên người, anh loạng choạng đứng lên một lần nữa và lại bị đánh ngã mạnh hơn. Anh đã không hiểu ra rằng những ngày nằm ngửa sóng sượt đã phá hoại sức lực anh đến mức nào và giờ đây anh nằm thở không ra hơi trong khi gã da đen đứng sừng sững bên anh với một vẻ như nói với Kunta rằng y sẽ còn đánh gục anh cho đến khi nào anh hiểu ra ai là chủ. Lúc này tên da đen ra hiệu thô bạo cho Kunta đứng dậy. Thấy anh thậm chí không chống nổi hai tay, hai đầu gối để nhấc người dậy, y văng tục, kéo thốc anh đứng lên và đẩy về phía trước, đôi còng chân buộc Kunta phải tập tễnh một cách vụng về. Thoạt đầu, ánh ngày tột cùng rực rỡ làm anh quáng mắt, nhưng một lúc sau, anh bắt đầu nhận ra một dãy người da đen hối hả đi thành một hàng dọc, theo sát đằng sau là một tubốp cưỡi một con “ngựa” như anh đã nghe thấy người ta gọi con vật kỳ lạ ấy là thế. Ngửi mùi, Kunta biết đây là tên cầm thừng sau khi Kunta bị hai con chó vây hãm. Có khoảng mươi mười hai người đen – đàn bà thì chít những mảnh vải đỏ hoặc trắng trên đầu, đàn ông và trẻ con thì phần đông đội mũ rơm rách tươm; có mấy người để đầu trần và nhìn đến cuối tầm mắt, Kunta vẫn không thấy ai đeo lá bùa xaphi nào quanh cổ hoặc nơi cánh tay. Nhưng một số đàn ông mang cái gì từa tựa như những con dao dài, to bản và dãy người xem chừng đang hướng về phía cánh đồng lớn. Anh nghĩ chắc đây là những người anh nghe thấy hát hoài hồi đêm. Với họ anh không cảm thấy gì khác ngoài nỗi khinh bỉ. Đưa cặp mắt hấp háy ngoái lại nhìn, Kunta đếm số lều họ ở. Có mười cái kề cả của anh – tất cả đều rất nhỏ, cũng như lều anh, và chẳng có cái vẻ to tát như những lều đất ở làng anh, mái thơm mùi tranh. Những lều này được bố trí thành hàng, mỗi hàng năm cái – Kunta nhận thấy chúng được sắp đặt sao cho bất cứ sự gì diễn ra trong đám người đen ở đây đều có thể thấy được từ tòa nhà trắng lớn. Đột nhiên, gã da đen lấy ngón tay chọc chọc vào ngực Kunta rồi thốt lên: “Mày – mày Tôby!” Kunta không hiểu, vẻ ngỡ ngàng hiện ra nét mặt, cho nên gã đen cứ tiếp tục chọc ngón tay vào và nói đi nói lại câu đó hoài. Kunta từ từ vỡ nhẽ ra rằng gã da đen này đang cố gắng làm cho anh hiểu điều gì đó mà hắn nói bằng thứ tiếng kỳ lạ. Thấy Kunta vẫn ngẩn tò te nhìn trừng trừng vào hắn gã da đen bèn chọc chọc vào chính ngực mình: “Tao Xamxơn!” Hắn kêu “Xamxơn!” Hắn lại chuyển ngón tay xỉa vào Kunta “Mày! Tôby! Tôby! Me-xừ bảo mày tên Tôby!” Khi bắt đầu thấu hiểu ý hắn, Kunta phải hết sức tự chủ, mới nén được cơn điên giận tràn ngập trong lòng, nét mặt vẫn không mảy may lộ dấu hiệu gì tỏ ra là hiểu. Anh những muốn thét lớn: “Tao là Kunta Kintê, con trai đầu của Ômôrô vốn là con trai của bậc thánh nhân Kairaba Kunta Kintê!” Mất hết kiên nhẫn trước sự ngu xuẩn bề ngoài của Kunta, tên da đen chửi thề, nhún vai và dẫn anh tập tễnh bước vào một túp lều khác, tại đó hắn ra hiệu cho Kunta tắm rửa bằng một chậu sắt tây to rộng đựng nước. Hắn ném vào đó một mảnh vải và một miếng gì nâu nâu; mũi Kunta mách anh đó là một thứ tương tự như loại xà phòng mà phụ nữ Jufurê vẫn làm bằng nước mỡ nóng trộn với nước kiềm nhỏ giọt qua tro củi. Gã da đen quàu quạu nhìn Kunta lợi dụng cơ hội để tắm rửa. Xong xuôi, gã da đen ném cho anh vài cái quần áo tubốp để che ngực, che chân, rồi một cái mũ rơm vàng khè đã sờn, giống như của những người kia. Không biết dưới sức nóng của mặt trời Châu Phi thì các bọn vô đạo này sẽ xoay sở ra sao. Kunta tự hỏi. Sau đó gã da đen lại dẫn anh đến một túp lều khác. Bên trong lều, một mụ già cáu kỉnh dằn mạnh một đĩa sắt tây thức ăn trước mặt Kunta. Anh nuốt ực đĩa cháo đặc và ăn một thứ giống như bánh munkô, chiêu bằng một thứ canh nóng màu nâu có vị thịt bò đựng trong một vỏ bầu tròn. Tiếp đó họ đến một túp lều hẹp, rúm ró, mới ngửi mùi đã biết trước nó dùng để làm gì. Làm bộ như tụt quần, gã đen khom lưng trên một cái lỗ to khoét vào một chỗ ngồi bằng ván gỗ và rặn ì ạch như chính hắn đang ỉa vậy. Một đống nhỏ lõi ngô chất ở trong góc, Kunta không biết ý nghĩa nó là thế nào. Nhưng anh đoán mục đích của gã đen là chỉ vẽ những cung cách lề thói của tubốp – mà anh muốn học được tất cả những gì có thể học, để dễ bề trốn thoát hơn. Gã da đen dẫn anh đi qua mấy căn lều tiếp theo và họ đi ngang một ông già ngồi trong một cái ghế kỳ dị đu đưa tới, lui chầm chậm trong khi ông lấy rác ngô nỏ đan thành thứ gì đó mà Kunta đoán là một cái chổi. Không ngước lên, ông già liếc nhìn về phía anh, không có vẻ gì là ác cảm, nhưng Kunta tỉnh bơ lờ đi.Chọn lấy một trong những con dao dài to bản mà Kunta đã thấy đám người lúc nãy mang theo, gã đen hất đầu về phía cánh đồng xa, làu bàu ra hiệu cho Kunta đi theo mình. Tập tễnh trong những còng sắt cọ xước cổ chân, Kunta trông thấy trên cánh đồng trước mặt toàn phụ nữ và trẻ con đen hết cúi xuống lại ngẩng lên, lượm và chất đống những thân ngô đằng sau đám đàn ông vung dao chặt những gốc ngô ngả xuống soàn soạt. Phần lớn toàn đàn ông để lưng trần, bóng nhãy mồ hôi. Kunta dõi mắt tìm một vết dùi sắt nung đỏ đánh dấu như ở trên lưng anh, nhưng chỉ thấy sẹo roi. Tên tubốp phóng con “ngựa” tới, trao đổi mấy câu cộc lốc với gã đen, rồi chằm chằm nhìn Kunta, vẻ hăm dọa, trong khi gã đen ra hiệu cho anh chú ý. Phát được khoảng một tá thân ngô, gã đen quay lại khom khom, và làm hiệu cho Kunta nhặt lấy và chất thành từng đống như những người kia. Tên tubốp thúc ngựa lại gần bên cạnh Kunta, roi lăm lăm và vẻ quàu quạu trên mặt nói lên rành rành ý đồ của hắn nếu Kunta không chịu vâng lời. Giận điên lên vì nỗi bất lực của mình, Kunta cúi xuống nhặt lấy hai thân ngô. Phân vân anh nghe thấy tiếng dao của gã đen chém soàn soạt đằng trước. Anh lại cúi xuống nhặt hai cây ngô nữa, rồi lại cây nữa. Anh có thể cảm thấy những cái nhìn của đám người đen từ những luống kề đấy dán vào anh, và trông thấy chân con ngựa của tên tubốp. Anh cũng có thể cảm thấy sự nhẹ nhõm của những người đen kia khi, cuối cùng, những chân ngựa phóng vụt đi. Không cần ngẩng đầu, Kunta vẫn trông thấy tên tubốp phi ngựa đây đó tới mọi chỗ hắn thấy có ai làm không đủ nhanh để vừa ý hắn; khi đó, cây roi trong tay hắn liền quật đánh đét trên một cái lưng trần, kèm theo một tiếng quát giận dữ. Đằng xa Kunta trông thấy một con đường cái. Trên con đường đó, mấy lần trong buổi chiều nóng nực, qua những giọt mồ hôi chảy ròng ròng trên trán và rớt vào mắt cay xè, anh thoáng thấy một người cưỡi ngựa đơn độc và hai lần thấy một chiếc xe kéo. Ngảnh đầu sang phía kia, anh trông thấy bìa cánh rừng anh đã trốn vào, định tẩu thoát. Và từ chỗ anh đang chất đống những thân ngô lúc này, anh mới rõ cánh rừng quả là hẹp và sở dĩ anh bị tóm là vì không nhận ra điều đó từ trước. Sau một lát, Kunta phải thôi không nhìn về hướng đó nữa, vì nỗi thôi thúc lại nhói lên, giục anh vùng lên, bổ nhào về phía những hàng cây nọ, hầu như không sao cưỡng nổi. Dù sao mỗi lần nhấc chân đều nhắc nhở rằng anh sẽ không tài nào chạy nổi đến năm bước qua cánh đồng với những còng sắt này. Trong khi làm suốt buổi chiều, Kunta quyết định là lần sau, trước khi định trốn, phải kiếm cho ra một thứ khí giới nào đó để đánh nhau với lũ chó và người đuổi bắt. Không một bày tôi nào của Chúa Ala được phép không đánh trả khi bị tấn công, anh tự nhắc nhở như vậy. Dù đó là chó hay người, trâu điên hay sư tử đói, đã là con trai của Ômôrô thì đừng có nghĩ đến chuyện từ bỏ chiến đấu. Sau khi mặt trời lặn tiếng tù và lại vang lên – lần này ở đằng xa. Trong khi nhìn những người da đen nọ hối hả sắp hàng, Kunta ước gì mình có thể thôi không nghĩ rằng họ thuộc những bộ lạc bề ngoài giống hệt họ bởi vì họ chỉ là những kẻ vô đạo không xứng đáng hòa lẫn với những người cùng bị bắt với anh trên con xuồng lớn. Song cái bọn tubốp thật ngu xuẩn biết bao: Những người mang dòng máu Fulani – dù chỉ là những mẫu tồi như thế này – đáng lẽ phải để họ chăn nuôi gia súc, thì chúng lại đem dùng vào việc hái ngô; ai cũng biết rằng người Fulani sinh ra để chăn gia súc, rằng quả thực, dân Fulani và gia súc cùng nói chung một thứ tiếng. Ý nghĩ này bị cắt ngang khi tên tubốp cưỡi “ngựa” hoa roi vun vút xua Kunta về cuối hàng. Anh đang làm theo thì người phụ nữ thân hình trùng trục nặng nề ở cuối hàng vội bước lên mấy bước, cố tránh thật xa Kunta. Anh cảm thấy muốn nhổ vào mặt mụ. Khi họ bắt đầu cất bước – mỗi bước cà nhắc lại cào vào cổ chân anh lúc này đã trày da và bắt đầu rỉ máu – Kunta nghe thấy mấy con chó sủa ở đằng xa. Anh rùng mình nhớ đến những con đã săn đuổi và tấn công anh. Rồi hồi ức vụt lóe thắp trong anh hình ảnh con chó uôlô của chính mình đã chết như thế nào khi chọi nhau với bọn người bắt anh ở châu Phi. Trở về lều, Kunta quỳ xuống, chạm trán vào nền đất rắn, hướng về phía mà anh biết mai tới mặt trời sẽ lại mọc lên. Anh cầu nguyện hồi lâu để bù lại hai lần phải bỏ qua ở ngoài đồng, vì lẽ tên tubốp cưỡi “ngựa” chắc chắn sẽ cắt ngang bài kinh bằng một ngọn roi quất trên lưng anh. Cầu nguyện xong, Kunta ngồi thật ngay ngắn và khe khẽ nói bằng thứ ngôn ngữ xira kangô huyền bí, xin tổ tiên phù hộ anh đủ sức chịu đựng. Rồi lấy ngón tay bóp chặt hai chiếc lông gà anh đã xoay sở lén nhặt được sáng nay khi “Xamxơn” dẫn anh đi quanh, Kunta tự hỏi chẳng biết bao giờ mình có cơ hội đánh cắp một quả trứng còn tươi. Với những chiếc lông gà và một chút vỏ trứng tán nhỏ, anh sẽ có thể làm được một tế vật có hiệu lực mạnh mẽ để dâng các thần linh xin ban phước cho lớp bụi mà những bước chân cuối cùng của anh đã chạm phải nơi làng quê. Nếu lớp bụi đó được ban phước, nốt chân anh một ngày kia sẽ tái hiện ở Jufurê, tại đó xóm giềng làng nước đều nhận ra được nốt chân nhau và bà con thấy dấu hiệu đó sẽ hân hoan biết rằng Kunta còn sống và sẽ trở về làng bình yên. Một ngày nào đó. Có lẽ đến lần thứ một nghìn, anh sống lại cơn ác mộng mình bị bắt. Giá như cái nhành cây gẫy báo động cho anh chỉ cần sớm hơn một bước thôi, ắt hẳn anh đã có thể chồm lên vớ lấy chiếc giáo rồi. Những giọt nước mắt tức tối trào lên. Anh có cảm giác là hàng bao tuần trăng triền miên bất tận, anh chỉ biết độc có một nông nỗi là bị săn đuổi, bị tấn công, bị bắt và bị xiềng. Không! Anh không cho phép mình hành động như thế này. Dù sao đi nữa, giờ đây anh cũng là một người đàn ông trưởng thành tuổi đời mười bảy vụ mưa, non nớt chi nữa mà còn khóc lóc, thương thân trách phận. Gạt nước mắt, anh bò lên chiếc chiếu mỏng, cục mịch bằng rác ngô nỏ và cố gắng ngủ - song anh chỉ một mực nghĩ đến cái tên “Tôby” đã được đặt cho anh và cuồng giận lại trào lên trong anh một lần nữa. Uất ức, anh lồng lộn đá chân, song cử động đó chỉ làm những còng sắt cắn sâu thêm vào cổ chân khiến anh lại phải kêu lên. Liệu có bao giờ anh lớn lên thành một người đàn ông như Ômôrô? Anh tự hỏi liệu cha còn nghĩ tới mình không và mẹ có dồn sang cho Lamin, Xuoađu và Mađi phần yêu thương đã bị cướp đi khi anh bị bắt lén? Anh nghĩ về tất cả mọi người ở Jufurê và chưa bao giờ hơn lúc này, anh nhận rõ mình yêu quí quê hương làng bản sâu sắc biết chừng nào. Như đã nhiều lần xảy ra trên con xuồng lớn, Kunta nằm suốt nửa phần đêm với những cảnh tượng làng Jufurê loang loáng hiện ra trong tâm trí cho đến khi anh cố tự bắt mình nhắm mắt và cuối cùng cái ngủ ập tới.