Hai năm sau anh nghĩ rằng không thể cứ thế này mãi được bèn xin vào làm một chức dịch nhỏ trong huyện. Các bạn thân mến, một người phóng khoáng như thế, Nhất Tường có quan tâm đến những đồng tiền bẩn thỉu không? Anh lúc nào cũng nghĩ tới cứu giúp người hoạn nạn, đối đãi với mọi người bằng tấm lòng nhân hậu. Trong nha môn cũng có người khen anh, cũng có người cho anh là một thằng ngốc, song anh chẳng để bụng, mặc cho mọi người chê cười. Thời gian cứ vùn vụt qua đi, mới thoáng cái mà đã sáu bảy năm, xem ra hai lần khảo hạch cũng sắp đến rồi, anh phải vào kinh phấn đấu. Vâng theo lời mẹ, anh vào kinh đô sống ba năm không dám hoang phí một xu nào, rồi được tuyển làm tri sự phủ Cửu Giang, Giang Tây. Tới nhiệm sở chưa được bao lâu thì ngục tì của bản phủ thiếu quan, cấp trên giao cho anh cai quản nhà tù. Anh dốc lòng vào công việc, quan tâm chăm sóc tù nhân, ngay cả những thường phạm tạm giam cũng không hề ngược đãi. Thậm chí những tù nhân phạm trọng tội, giam trong ngục anh cũng thường trực tiếp tới thăm hỏi. Người bẩn thỉu thì anh tắm rửa, người đau ốm thì anh thuốc thang chạy chữa, rét thì cho áo, đói thì cho cơm. Ai ai cũng mang ơn anh, nên hết sức cảm động. Còn đối với những người bị vu hàm oan khuất gặp cấp trên không công bằng sáng suốt đánh đập ép cung. Biết mười mươi là oan uổng nhưng không có thể trực tiếp minh oan cho họ được, anh luôn luôn cảm thấy hổ thẹn. Bởi thế phòng anh, rỗng tuếch. Anh ăn mặc hết sức giản dị. Anh tùng đề một bài thơ ngắn trên tường như sau: Đạo lý nay chẳng còn. Người không vẽ được gió. Bao giờ hết hình phạt, Thì thành sẽ bỏ không. Thơ là nói cái chí của con người, cũng giống như Thiệu Nghiêu Phu mong rằng trời luôn sinh ra người tốt, người luôn làm việc tốt. Như thế mới biết được nỗi quan tâm hằng ngày của anh. Được nửa năm thì có một vị án đài mới, được bổ nhiệm tới đây. Các quan lớn nhỏ đều đến yết kiến, dù không muốn nhưng anh cũng đôi ba lần theo họ tới bái kiến. Các bạn thân mến, dinh quan sát viện oai nghiêm biết là phương nào, những quan nhỏ ấy làm sao mà có thể nói năng với ngài được. Song sự thể đã như thế, không đi không được. Đi liền trong ba ngày, bái kiến xong mọi người ra về. Nhất Tường cũng phải cáo lui, bỗng nhiên thấy bên trong có lệnh gọi Diêu tri sự. Nhất Tường không hiểu vì sao, giật thót mình, anh nghĩ: "Ta làm quan ở đây chưa từng làm điều gì phi pháp, không lấy một xu nào phi pháp, chắc rằng chẳng có can hệ gì, ta ngại gì mà không vào". Thế rồi anh vội vã bước vào. Sát viện hỏi: - Anh có phải là Diêu Nhất Tường không? - Thưa ngài, con chính là Diêu Nhất Tường. - Anh đến đây đã lâu chưa? - Thưa ngài con đến đây được mười tháng. - Anh cai quản nhà giam bao lâu rồi? - Thưa ngài con đã làm được năm tháng. - Anh là người phong lưu khoáng đạt, sao lại làm một chức quan nhỏ như thế? Thấy nói vậy Nhất Tường rất nghi hoặc, miễn cưỡng nói: - Không dám. - Năm ấy tháng ấy anh cặp kè uống rượu với gái điếm ở Vũ Hoa đài có phải không? Nghe thấy nói thế Nhất Tường không biết vì sao, tự nhiên hốt hoảng tim đập rộn lên, chẳng khác nào dội một chậu nước lạnh từ đầu đến chân, toàn thân run lên cầm cập. Anh lập tức bỏ mũ ra, rập cúi đầu lạy như gà mổ thóc, nói: - Con đáng tội chết, con đáng chết, cúi xin ngài tha tội. - Đừng hốt hoảng. Ta hỏi ngươi, khi ở Vũ Hoa đài có một tú tài lâm nạn hồn xiêu phách lạc, xin ngươi cứu giúp, ngươi cho người ấy bạc và quần áo có đúng không? Đến lúc ấy Nhất Tường mới bình tâm lại, vội đáp: - Thưa ngài có ạ. - Vậy ngươi có nhận ra người ấy không? - Con bất chợt giúp đỡ người ấy con cũng không hỏi họ tên ạ. - Người ấy chính là ta đó. - Rồi ông nói tiếp. - Hãy đứng dậy vái chào ta đi. Sau đó ngài sát viện gọi người đóng cửa lại. Lúc ấy Nhất Tường mới yên tâm đứng dậy vái chào, rồi đứng tránh sang một bên. Phép tắc của sát viện là, khi gặp các quan lại trong phủ không có lệ mời trà, hoặc có lưu lại mời trà thì cũng chỉ được đứng uống chứ không được mời ngồi. Bởi thế Diêu Nhất Tường tuy có ơn cũ với ngài sát viện nên cũng chỉ đứng uống trà mà thôi. Uống xong, sát viện nói: - Từ ngày ta được ngươi chu cấp trở về quê, cũng may được đỗ đạt, lúc nào cũng nghĩ đến việc đền ơn, nhưng chưa gặp được. Nay gặp anh ở đây cũng là do trời dun rủi, song chỉ có điều tôn ti cách nhau quá xa, thể lệ nghiêm ngặt không thể năng đi lại để báo đáp được. Anh đã có tấm lòng thương người, hiểu được tường tận những phạm nhân. Trong đó nếu có những người oan uổng mà quả thực thương họ thì anh có thể khai ra mấy người, mỗi người kiếm được một ngàn lạng bạc, thì ta cũng sẽ tha cho họ để báo ơn anh. Nhất Tường được phép, cảm ơn quan đã mời trà rồi ra về. Anh thấy những người trong nha môn cứ thấp thà thập thò để nghe ngóng, xem vì sao mà quan lớn lại mời trà. Những người viết báo ở phủ huyện viết việc này thông báo đến các nha môn trong phủ huyện. Thế là các quan trong phủ huyện gửi thiếp đến chúc mừng Nhất Tường, thậm chí có người còn mang cả lễ vật đến. Các bạn cho rằng những người này nịnh bợ viên quan coi ngục tép riu này ư. Đó chẳng qua là họ nịnh bợ người quen biết ngài sát viện mà thôi. Về tới nha môn Diêu Nhất Tường vô cùng vui sướng, anh gọi ngay người thư lại tới rồi nói hết chuyện đã xảy ra. Thư lại đều chúc mừng: - Xin mừng ông lớn, được một món tiền kếch xù. Diêu Nhất Tường cười nói: - Các anh là đồ ngu. Nếu ta là loại người cần tiền thì tại sao hằng ngày ta không hạch sách họ để kiếm tiền? Chỉ vì ta là quan nhỏ, chức thấp không thể minh oan cho họ được, bởi thế lúc nào ta cũng ân hận. Nay may mà ông lớn có lòng tốt ta cũng muốn dựa vào đó té nước theo mưa để thực hiện ý nguyện của ta bấy lâu nay. Há có phải vì được tiền mà vui mừng đâu? Nếu như đòi tiền, những người oan uổng không có tiền thì rốt cục sẽ không tha họ sao? Nghe thấy thế, tuy ngoài miệng thư lại khen ngợi nhưng trong lòng cứ cười thầm: "Làm gì có người không cần tiền? Trước mặt mọi người tỏ vẻ thanh liêm đó thôi, chờ xem ông ta làm sẽ biết". Thế rồi thư lại nói: - Nếu ngài không cần tiền thì ngài xem trong ngục có mấy người mắc oan? - Ta tới đây làm việc, - Diêu Nhất Tường nói, luôn nghĩ tới điều này, cho nên ta thường thăm dò, thấy trong nhà tù có bảy người oan thực sự. Thế rồi anh kể rõ họ tên và nổi oan khuất của họ, rồi nói: - Các anh hãy trình bày thật tỉ mỉ nguyên nhân và sự việc dẫn đến oan khuất rồi trình bày lên ngài sát viện thả họ ra, ta không đòi họ một xu nào. Trong số đó có ba bốn phú gia, nếu thả họ ra thì các anh có thể đòi họ một vài chục lạng cũng không phải là quá đáng. Ngục lại lập tức nói với bảy người ấy. Họ vô cùng cảm tạ, sai ngay người tới nhà báo tin là sẽ gom bạc mang tới cho thư lại. Bọn thư lại tính rằng: "Ông nói là không đòi bạc, chưa chắc là thật lòng? Ông ấy đã biết được ba bốn phú gia, ngài sát viện lại nói mỗi người lấy một ngàn lạng, thôi thì ta đòi mấy người gom lại hai ba ngàn lạng tới đây rồi đưa văn bản cho ông ấy. Nếu quả ông ấy không cần tiền thì lập tức sẽ mang văn bản đi ngay. Nếu giả vờ thì thế nào cũng trùng trình trì hoãn lại vài ba ngày, lúc ấy ta sẽ mang bạc tới cho ông ta. Mọi người bàn bạc xong, và số bạc cũng đã gom đầy đủ. Mấy hôm sau làm xong văn bản, thư lại mang cho Diêu Nhất Tường xem, nhận được văn bản Nhất Tường vội vã lên gặp ngay ngài sát viện. Lúc ấy thư lại mới biết ông không cần tiền thật, thế là ai ai cũng tấm tắc khen ngợi. Đến sát viện, anh chờ mở cửa truyền lệnh cho vào. Lần này khác hẳn với lần trước, Nhất Tường vừa bước vào ngài sát viện lệnh đóng cửa. Nhất Tường trình văn bản lên, bẩm: - Thưa ngài, hằng ngày tri sự tìm hiểu thực tình. Trong số trọng phạm, có bảy người quả thực oan uổng, được ngài cho phép con dám mạnh dạn tâu trình, mong ngài gia ân trời biển. Ngài sát viện xem tờ trình, nói: - Anh đã được gì chưa? - Thưa ngài họ đã hẹn rằng đến ngày được thả ra sẽ tạ ơn tất cả là bảy ngàn lạng bạc. - Nếu được như thế, - ngài sát viện nói, - cũng đủ đền ơn anh rồi. Anh hãy mang số bạc ấy về nhà sống thoải mái đến lúc già, rong chơi ở chốn suối rừng, hà tất cứ phải uốn gói khom lưng vì năm đấu gạo. Nhất Tường nhận lệnh rồi đi ra. Ngài sát viện phê chuẩn tha ngay bảy người ra khỏi nhà tù. Gia quyến của bảy nhà ấy dắt díu, thắp hương đội lễ, nước mắt tuôn rơi lã chã quỳ xuống đi bằng đầu gối tới nha môn lạy tạ. Tuy Diêu Nhất Tường nói là mình được bảy ngàn lạng bạc, nhưng thực ra không được xu nào. Nếu như vào tay người khác vì minh oan mà được bằng ấy tiền cũng không phải là quá đáng. Có nghĩ là người giàu thì lấy tiền còn người nghèo thì nói dùm, như thế cũng là bậc thánh nhân quân tử rồi. Người cao thượng nhất, nếu không được tiền thì cũng nói rõ với cấp trên, để cấp trên thấy được nguyện vọng minh oan chân thực của mình. Như thế thì cũng chẳng ai có thể đạt được. Song đằng này Diêu Nhất Tường không được một xu nào mà nói là được bảy ngàn lạng bạc. Ai có thể rửa oan cho người lại chịu mang tiếng mà không có quyền lợi thực, không lợi dụng để lấy tiền của của người khác. Không cần người khác khen mình để mưu cầu cấp trên khen thưởng. Há chẳng phải đó là tấm lòng của bậc đại thánh nhân đại Bồ Tát sao? E rằng những người như thế xưa nay quả là hiếm có. Hôm sau Nhất Tường lập tức đệ đơn xin nghỉ. Ngài sát viện tưởng rằng Nhất Tường đã được bảy ngàn lạng bạc thật, phê chuẩn ngay, thế là ông treo mũ trở về. Bởi thế đã làm chấn động cả thành phố. Phủ, huyện, đạo không ai không khâm phục, nói: - Một chức quan nhỏ bé không nhận hối lộ mà lại rửa oan được cho người thì quả là đến quan ngự sử cũng không sánh kịp. Thế là khi về những người đồng liêu tặng ông rất nhiều quà. Họ hàng bảy người được tha tập hợp bạn bè với Tam viện, thuật lại việc Nhất Tường minh oan cho người mà không lấy một xu hối lộ, quả là một người đức độ liêm khiết, xứng đáng là tấm gương cho đời, nên đưa tên ông vào đền thờ những vị quan nổi tiếng. Lúc đầu chuẩn y cho ông về nghỉ, ngài sát viện cứ ngỡ là ông có bảy ngàn lạng bạc, về nghỉ hưu cũng đủ lắm rồi. Đến khi thấy người ta trình lên như thế mới biết Nhất Tường không cần tiền bạc. Ông vô cùng kinh ngạc nghĩ: "Một người tốt như thế quả là độc nhất vô nhị! Song ta muốn báo đền ơn anh mà lại làm cho anh phải thôi việc, không ngờ mình làm lỡ dở con đường thăng tiến của anh". Thế là quan lập tức phê chuẩn đưa ông vào thờ tại miếu thờ các vị quan nổi tiếng. Các bạn thân mến, các bạn bảo rằng tri sự được đưa vào miếu thờ xưa nay được mấy người? Đó chính là sự báo đức vậy. Về tới nhà, hai túi rỗng không. Cháu tuy đã đỗ tú tài nhưng gia đình nghèo túng. Mọi người trong nhà đều oán trách ông không biết tính toán đã không được tiền thì sao không xin ông đền cho một chức quan nho nhỏ. Há rằng đây chẳng phải là việc mất cả chì lẫn chài sao. Diêu Nhất Tường vẫn cứ vui vẻ bình thản như thường. Đến năm hơn chín mươi tuổi, bỗng một hôm Diêu Nhất Tường nằm mơ thấy năm sáu người mặt áo xanh đội mũ quỳ trước mặt bẩm rằng: - Chúng tôi đến nghênh đón ngài. Trong giấc mơ ngài Diêu cũng vẫn nhận ra đây là những người mình cứu họ thoát chết. Nhân đó mới hỏi lại: - Vì sao các người đến đây. - Chúng con đội ơn ông lớn cứu mạng được trở về, - những người ấy nói, - tất cả tổ tông cha mẹ của bảy nhà chúng con đều tâu lên Thiên Đế, Thiên Đế lệnh cho Tư mệnh Chân quân tăng tuổi thọ cho ngài và phù hộ cho con cháu ngài đời đời vinh hiển. Tuổi trời cho của ngài sắp hết rồi, chúng con đến đây hầu hạ ngài. Bên ngoài có sẵn kiệu, xin mời ngài đi ngay. Ông Diêu nghe xong bèn lên kiệu. Người ta khiêng tới nha môn rồi đặt kiệu xuống. Thấy người gác cửa vào báo, sau đó một vị quan từ bên trong bước ra nghênh tiếp. Nhìn kỹ thì vị ấy ăn mặc không giống quan phủ, mà đội mũ miện, mặc áo long cổn, lúc ấy ông Diêu mới hiểu rằng đó là Diêm La Vương. Diêm Vương vái chào ông Diêu, rồi cùng ông lên thiên đình. ông thấy có một vị ngồi sẵn tại đó. Diêm Vương vái chào mời ông Diêu ngồi trên vị Tướng này. Ông Diêu chối từ không dám ngồi. Diêm Vương nói: - Ông có âm đức. Hôm qua sắc luật trời gửi xuống mời ông làm Hình tào Thái Sơn. Ông hãy về nhà lo liệu công việc, sắp tới có người tới đón.Thế rồi tiễn ông Diêu trở ra. Mọi người lại mời ông lên kiệu rồi khiêng về. Ông Diêu ngáp một cái rồi tỉnh dậy, thì hóa ra đó là một giấc mơ. Sáng hôm sau lúc ngủ dậy, ông nói với người nhà rằng: - Hôm qua ta nằm mơ, có lẽ ta sắp chết rồi. Hằng ngày mọi người cứ trách ta là không nghĩ đến gia đình, đêm qua ta nằm mơ thấy những người mà ta cứu họ khỏi chết oan đã tới đón ta và nói rằng đã tâu lên Thiên đế xin cho con cháu ta phú quý vinh hiển. - Rồi ông chỉ vào đứa cháu, nói: - Người làm rạng danh cho nhà ta có lẽ con của anh này ư, Mọi người không cần phải lo nghèo đói. Sau đó ông thuật lại nhũng việc đã xảy ra trong giấc mộng, ông nói tiếp: - Diêm Vương nói với ta rằng, chỉ trong mấy ngày nữa sẽ sai người về đón. Nhất định ngày chết đã đến nơi rồi. Các con hãy nấu một nồi nước thơm cho ta tắm rửa để chờ họ. Theo lời ông, người nhà nấu nước thơm. Ông Diêu tắm xong lại nói: - Người đến đón ta đã tới cửa rồi. Cả nhà đều ngửi thấy mùi thơm sực nức khắp phòng, phút chốc ông tạ thế. Cháu của ông là Vĩnh Tế đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất thời Vạn Lịch, về sau làm quan tới chức Tả bố chánh Chiết Giang, rồi xin cáo quan về nhà. Phúc Lộc đều do thịnh đức của ông, ông đã giỏi xây dụng gia thế cho nhà mình, bởi thế dòng dõi trâm anh không bao giờ dứt. Bảy người nói rằng đã tâu lên Thiên đế xin cho ông, quả thật chẳng sai chút nào. Thực hiện âm đức được đền đáp, việc ấy rất linh nghiệm. Những bậc quân tử đương quyền, sao không ra tay cứu vớt mọi người để mưu cầu phúc lộc cho con cháu? Thơ rằng: Tích đức hơn tu hành. Tu hành chẳng bằng học. Số tận mình cũng hết, Tích đức hưởng trăm đời Lộc dành cho con cháu Đâu cứ phải công huân. Xin nhắc người dương chức, Biến bút thành trâm anh.