Thuốc phiện vốn là thuốc độc Thạch tín cũng chẳng độc bằng Ai ơi, chớ nên hút xách. Kẻo mà thuốc độc giết người. Khoa Giáp Tý năm Đồng Trị thứ ba, huyện An Nhạc xảy ra một vụ án. Ở Vương Gia Câu thuộc huyện An Nhạc quản hạt, có một người là Vương Minh Sơn, nhà giàu có, tính tình giảo hoạt, nói năng thông thạo. Trong làng xảy ra việc gì thường hay đi dàn xếp, mọi người cử ông ta đứng ra giải quyết những rắc rối trong làng. Ông ta kết giao với quan trường, xúi bẩy người khác kiện tụng để kiếm tiền. ông ta lấy Ngữ thị, mãi mà không sinh đẻ. Về sau cầu trời khấn Phật, năm mười bốn tuổi mới sinh được một mụn con trai, đặt tên là Thiên Hỷ, vợ chồng quý nó như vàng. Ngay từ khi còn bé, Vương Minh Sơn đã nhờ Lẫm sinh Lý Thiệu Nho khai tâm. Thiên Hỷ tuy khôi ngô tuấn tú, nhưng rất tối dạ, Minh Sơn lại rất keo kiệt, hằng năm cũng mời mấy ông đồ rỗi việc tới dạy, Ngũ thị lại không cho phép các ông quở trách nó. Mười lăm tuổi đầu vẫn chưa học hết Tứ thư. Gần đó có Thôi tiên sinh, là người ti tiện, thô bỉ, vô đạo đức, ông ta quen nịnh hót bợ đỡ để kiếm chỗ dạy học. Nghe thấy nhà ấy có con đi học, bèn lân la đến cầu cạnh làm quen. Ông ta lên phố mua quà, đến chúc mừng năm mới, xin dạy học. Minh Sơn nhận quà hai ba lần, nể quá đành cho Thiên Hỷ tới học. Ai ngờ Thôi tiên sinh đọc sách không thông, nhưng có rất nhiều bài văn mẫu, ra đề chữa văn đều theo những bài văn đó sửa chữa đôi chút cho học sinh chép, rồi cho điểm tốt, để học sinh về đánh lừa cha mẹ. Ông ta lại nghiện phiện, phàm là những bạn bè nghiện hút, bất kể tốt hay xấu, đều tới lớp học của ông, có khi ở tới mấy ngày, quyện quanh chiếc bàn đèn. Thượng bất chính, hạ tắc loạn, thầy đã nghiện thì trò cũng hút. Không những ông ta không ngăn cấm mà ngược lại còn bảo học trò đi lấy nhựa thông, rồi làm bài hộ. Thiên Hỷ cũng nghiện thuốc, lúc đầu hút sái, sau hút thuốc tốt, dần dà mua thuốc hút. Ngũ thị quá chiều con, lấy trộm tiền cho con mua thuốc. Học ba năm thì nghiện nặng, cha biết được thường luôn khuyên bảo. Ai ngờ thuốc phiện không giống các thứ khác, nói bỏ là bỏ thẳng được đâu. Không hút thì lúc nào cũng nghĩ tới nó, mà người lại sinh bệnh, nước mắt nước mũi lúc nào cũng chảy ra, đứng ngồi không yên, thì sao mà bỏ ngay được. Dù cho Minh Sơn khuyên rát cổ bỏng họng nhưng Thiên Hỷ nào có chịu nghe cho. Thấy con không bỏ được, Minh Sơn lại nhờ thầy quản chặt. Thầy Thôi vốn dựa vào Thiên Hỷ để hút, nên ông ta cũng sợ Thiên Hỷ bỏ thuốc, thế thì quản làm sao được. Không còn cách nào khác, Minh Sơn đành gọi con về, hết lời dạy bảo con: “Người ta sống trên đời phải có chí, đừng để cuộc đời phí hoài. Phải làm những việc ngay thẳng theo lẽ trời, đừng sống phóng đãng bệ rạc. Tình yêu tuổi trẻ vừa chớm nở. Đáng sợ là trên bàn còn nhiều quân cờ mà mình đi sai một nước. Phải phân biệt rõ xấu tốt, chính tà, phải học điều hay, ngăn ngừa điều dở, đừng mềm yếu. Đừng nghiện rượu, đừng tham của thì không bị khốn khó, đừng hiếu sắc hoang dâm với vợ con người. Kiếm tiền phải có nghĩa, khi tức giận phải biết nhẫn nại thì tự nhiên thấy thảnh thơi. Còn thuốc phiện thì tệ hại vô cùng, phải hết sức ngăn ngừa, đừng hút xách. Nếu như ngươi động vào nó thì sẽ mê nó như mê gái. Mới hút thì thấy tinh thần sảng khoái đê mê, nếu ho hay cảm sốt là khỏi ngay không phải mời thầy thuốc. Hút một điếu, thì muốn hút hai ba điếu. Hút một lần thì muốn hút hai ba lần, không thể nào xa rời nó được. Nếu như mắc nghiện sẽ thành thói quen, thiếu một chút, chậm một chút đều không chịu được. Mà khi đã hút thì sinh ra đủ các thứ bệnh tật, nước mắt nước mũi chảy ra, rời bỏ nó dù có nhân sâm cũng chẳng sao mà gượng dậy được. Người khỏe mạnh cũng trở thành ốm yếu, người béo tốt cũng trở thành gầy còm, người thông minh cũng trở thành ngu đần, người siêng năng cũng trở thành lười nhác. Người giàu có phải bán ruộng bán vườn, người nghèo khổ thì bán vợ đợ con. Người đọc sách thì rớt khỏi bảng vàng, người phú quý thì lầu son gác tía tiêu tan. Nhà có đàn bà thì mọi việc chẳng ai giúp đỡ, nhà có con gái thì chẳng ai đến hỏi. Nhà có nghề nghiệp cũng chẳng còn cơm ăn áo mặc. Nó làm cho mặt bủng da chì, không còn sinh khí, đến lúc ấy thì nó mời anh về Tây Trúc. Xuống âm ti địa ngục nằm giường sắt, đốt đèn lên, ngươi muốn bỏ nó, nó vẫn không buông tha. Đốt ngươi chảy thành keo, làm ngươi chịu biết bao thê thảm. Lượng tính trên thế gian ngươi đã hút bao nhiêu, chờ tới khi nào ngươi nhả hết ra, nó mới buông tha. Trời ơi! Rõ ràng thuốc độc hung ác vô cùng, hãy suy nghĩ kỹ đến nỗi khổ và sự tàn hại của nó mà bỏ ngay lập tức. Dù đã trót nghiện rồi thì phải cai ngay, phải cắt một nhát dao vào chỗ đau để dừng lại. Con ơi! Hãy xem những người chính trực thật hãnh diện biết bao, bữa cỗ họ được mời ngồi mâm trên. Còn những người nghiện hút, không biết dơ mặt dương dương tự đắc, song bị người ta chửi sau lưng. Con ơi, làm người phải đấu tranh với cái xấu phải ngăn ngừa thuốc phiện, thì mới hạnh phúc và sống lâu”. Từ đó Vương Minh Sơn không cho Thiên Hỷ đến trường, giữ ở nhà cai nghiện, cho con uống thêm một ít thuốc bổ, mua gà vịt và trứng về cho con tẩm bổ. Qua hai tháng đã thấy đỏ da thắm thịt, béo tốt khỏe mạnh. Sợ rằng nó tới trường lại hút, Minh Sơn cho người gánh vở về, rồi bảo con ở nhà làm việc. Song Thiên Hỷ cứ rỗi rãi là mò ra phố, một số bạn bè xấu lại rủ rê tới ngõ liễu đường hoa, hút một vài lần, rồi tái nghiện, và lại thêm khoản chơi gái. Sợ cha mẹ biết được, sáng nó đi lối này, chiều nó đi lối khác, đi hút ở nhiều nơi, không muốn về nhà. Lâu sau nó giấu cha mẹ, cứ đêm đến chờ mọi người ngủ say nó mới dậy thắp đèn hút thuốc. Cha nó biết rõ, cũng chẳng làm sao được. Thế rồi Ngũ thị bàn với chồng, chọn ngày hai mươi sáu tháng Tư năm Đồng Trị thứ ba, nhờ bà mối mang danh thiếp tới nhà họ Lý xin cưới. Lý Thiệu Nho nhận lời, vội sắm sanh đồ cưới đưa dâu về nhà chồng. Lý Thiệu Nho có một người con gái tên là Trinh Tú, dáng người xinh đẹp, vợ chồng ông rất yêu quý, dạy con học từ thuở nhỏ Trinh Tú rất thông minh, học được mấy năm đã biết ngâm vịnh Thiệu Nho lại giảng giải Nội tắc, Nữ liệt cho con, để con biết đạo làm con gái. Khi lớn lên, Trinh Tú đoan trang, thùy mị, có hiếu với cha mẹ, chăm chỉ vá may. Khi về nhà chồng ai ai cũng khen ngợi, vợ chồng Minh Sơn cũng rất vui mừng. Song phong tục nơi này rất thích vui chơi trong ngày cưới. Đêm ấy, khách dẫn chàng rể vào phòng, rồi gái trai nô đùa, cười cợt, chơi trò phạt rượu, lại đòi cô dâu chuốc rượu. Không sao được, Trinh Tú rót cho mỗi người một chén, sau đó vờ say bỏ đi. Thiên Hỷ uống nhiều rượu, lên cơn nghiện, vội đóng cửa, dọn giường chiếu, lấy bàn đèn. Thiên Hỷ đã giấu tẩu dưới nền nhà, lấy ra tiêm thuốc vào hút, thấy không thông, rít thuốc hai lần vẫn thấy như thế. Thiên Hỷ mới biết tẩu bị tắc, tìm chiếc thông tre thông rồi mới hút. Trinh Tú thở dài. Thiên Hỷ nói: - Tôi không nhịn được nữa đành phải hút, đã cai nhưng cai không nổi. Cha không cho hút, tha thiết mong nàng hết sức giữ kín cho, đừng nói với cha tôi. Nếu ông ấy mà biết được thì tôi sẽ phải đòn, mà nàng cũng không thoát khổ, hôm nay ta nhận tội trước với nàng. Thiên Hỷ hút một lèo, rồi cất tẩu vào chỗ cũ, cởi áo đi ngủ. Trịnh Tú thấy Thiên Hỷ trằn trọc trên giường, cứ thở dài luôn, sau đó đập xuống phản mấy chiếc. Trịnh Tú ngỡ rằng chồng thấy cô không ngủ, không tiện gọi, mới làm như thế để gọi cô, cô bèn tháo trang sức, cởi đai bó chân đi ngu. Thấy chồng quay mặt vào tường, cho rằng chồng giận cô đi ngủ muộn, cô cũng không lên tiếng. Khi gà gáy sáng, cô trở dậy trang điểm xong. Khách khứa đã dậy hết mà chồng vẫn chưa dậy. Cô sợ rằng khách vào phòng sẽ chê cười, muốn gọi lại thấy ngượng. Bên ngoài có tiếng gọi nhau bày cỗ, nên cô đành phải gọi. - Anh vẫn không dậy ư? Gọi liền mấy tiếng không thấy thưa, cô mở màn ra, thấy chồng vẫn quay mặt vào tường ngủ, cô lay dậy thì thấy người lạnh toát lay thật mạnh thì người đã cứng rồi. Cô sợ quá hồn xiêu phách lạc, gọi không thành tiếng. Nhũng khách con gái đều đã đi ăn cỗ, cô chạy ra ngoài gọi mẹ chồng: - Mẹ ơi, anh ấy đã lạnh toát rồi, không biết vì sao? Minh Sơn vội vã vào phòng, thấy mồm mũi mắt tai Thiên Hỷ đều chảy máu, đã chết cứng rồi, ông gọi: - Con ơi! Vì sao mà con chết! Thế rồi ông đấm ngực mình, ngã lăn ra đất. Lúc ấy khách khứa ùa cả tới, vội lấy nước gừng đổ vào mồm, mãi ông mới tỉnh dậy, nói: - Con ơi, con chết đi thì cha sống làm sao được. Ông bà già vỗ về xác con khóc: Cha: - Vừa nhìn đã biết con tôi mất rồi. Mẹ: - Mẹ đau lòng lắm con ơi! Cha: - Trước đây cha hận rằng chưa có con. Mẹ: - Cầu Thần khấn Phật mãi. Cha: - Sinh được đứa con mới an tâm. Mẹ: - Tôi quý nó như vàng. Cha: - Nghe thấy cưới vợ, nó rất mừng. Mẹ: - Mong vợ chồng con bách niên giai lão. Cha: - Đêm qua nó còn vào phòng. Mẹ: - Không biết vì sao sáng nay nó đã bỏ đi. Cha: - Tiếc thay nó khôi ngô tuấn tú. Mẹ: - Tiếc thay tôi chỉ có mình nó. Cha: - Hằng ngày nó sống rất hiếu thuận. Mẹ: - Mẹ mong con, đông con nhiều cháu. Cha: - Tuổi đã già, mất con thật là bất hạnh. Mẹ: - Trăm năm về nơi suối vàng ai chôn cất! Cha: - Từ nay trở đi ai là người hương khói tổ tiên. Mẹ: - Nhà họ Vương từ đây tuyệt tự. Cha: - Không biết con tôi mắc bệnh gì? Mẹ: - Nếu nó ốm thì phải nói với cha mẹ. Cha: - Mồm, mũi, mắt, tai nó còn vết máu. Mẹ: - Vậy thì nó chết là do duyên cớ khác chăng? Cha: - Phải hỏi con dâu cho ra lẽ. Mẹ: - Nó chết oan phải được minh oan. Vợ chồng Minh Sơn khóc xong, quay sang hỏi Trinh Tú: - Con ơi, vì sao chồng con chết? - Con không biết vì sao. - Trinh Tú nói. - Đêm qua anh ấy đi ngủ trước, con thấy anh ấy trằn trọc không ngủ, rồi cứ thở dài luôn. Sau đó con đi ngủ, thấy anh ấy quay mặt vào tường ngủ rất say, sáng ra con gọi, mới biết anh ấy chết. - Mày đừng che giấu nữa, - Minh Sơn nói, - hãy nói thực ra. - Con nói thực đấy, - Trinh Tú nói, - con hoàn toàn không nói sai. - Rõ ràng là mày đã dùng thuốc độc đầu độc con ta, mày còn giả vờ không biết ư? - Cha đừng đổ oan cho con, con tuy ngu đần, song cũng biết lễ nghĩa, đàn bà vốn phải nhờ chồng, lẽ nào lại giết chồng đi? - Rõ ràng là mày ở nhà có tình nhân, đã tình sâu nghĩa nặng với nó, không muốn về nhà tao, cho nên mày giết con tao để lấy nó, mày giấu tao sao được? Bây giờ ta không thèm nói với mày nữa, phải đưa đến công đường cho ra lẽ. Rồi ông bảo mọi người vào thành đệ đơn tố cáo con dâu gian dâm đầu độc chồng, xin khám nghiệm tử thi. Quan xem đơn, ngày hôm sau đích thân tới khám nghiệm. Nhũng người khám nghiệm kết luận chết vì thuốc độc. Quan hỏi Minh Sơn: - Đêm hôm qua trong phòng con ông có người không? - Đêm hoa chúc, sao lại không có người - Minh Sơn nói. Quan hỏi Trinh Tú: - Chồng người chết thế nào? Trinh Tú nói, đêm ấy bạn bè thân thích vui chơi trong phòng, đòi anh ấy chuốc rượu, khách ra khỏi phòng thì chồng hút thuốc phiện. Quan hỏi Minh Sơn: - Trước đây con ông có hút thuốc phiện không? - Con tôi nghiện phiện. - Minh Sơn nói. - Cho dù có nghiện, thì thuốc phiện cũng không làm chết người được - Quan nói. - Cho nên cái chết này không phải chết do chất độc của thuốc phiện. Quan hỏi mọi người thì ai cũng bảo, đêm qua vào phòng anh không có bệnh tật gì. Quan bèn cho giải Minh Sơn và Trinh Tú về huyện, rồi gọi Trinh Tú hỏi: - Bố chồng ngươi tố cáo ngươi gian dâm, giết chồng, nay gặp quan huyện sao không khai thực? Trinh Tú cúi đầu vừa khóc vừa nói: - Thưa ngài đèn trời soi sét, con xin nói rõ nỗi oan ức của con. Cha con Lý Thiệu Nho được bổ làm Lẫm sinh, mẹ con là Lưu thị, được người làng khen ngợi là hiền thục. Con từ nhỏ cũng được học hành, biết giữ gìn phép tắc của phận đàn bà, biết thế nào là "tam tòng tứ đức"(1) cần cù chịu thương chịu khó. (1) Tam tòng: ở nhà theo cha, đi lấy chồng thì theo chồng, chồng chết theo con. - Đã biết tam tòng tứ đúc, tại sao còn đầu độc chồng? - Không biết kiếp trước con có lỗi lầm gì, kiếp này mới về nhà chồng thì chồng chết. Lúc ấy con chỉ biết khóc, tiếc rằng vợ chồng mới lấy nhau được một đêm đã chia lìa đôi ngả. Bố mẹ chồng thấy chồng con chết sinh nghi, rồi kiện con. Cha mẹ chồng nói rằng con đã ngấm ngầm thông dâm rồi đầu độc chồng. - Đúng rồi, chồng ngươi vào phòng vẫn khỏe mạnh, ngươi không đầu độc thì còn ai nữa! Hãy khai mau, để khỏi phải tra tấn. - Trời ơi, thưa ngài, con van ngài vì lòng nhân ái mà suy xét kĩ cho tình cảnh của con, quả là con oan uổng, thì làm sao mà con nhận được. - Ta hỏi ngươi tử tế, mà ngươi không khai, quân bay đâu, hãy vả nó bốn mươi cái cho ta. - Trời ơi, thưa ngài, cho dù con đã mưu hại chồng con, thì xin hỏi ngài con lấy thuốc độc ở đâu? - Mày đã làm sẵn thuốc độc ở nhà mẹ đẻ, mày còn chối cãi gì nữa. - Trời ơi, thưa ngài, vợ chồng trẻ mới cưới, chúng con chẳng có thù hận gì, làm sao có chuyện vừa về nhà chồng đã hại anh ấy! - Ngươi ở nhà mẹ đẻ đã thông dâm, giết chồng để lấy chồng khác. Ta đã biết rõ rồi, ngươi không khai ư? Đánh, đánh, đánh đi cho ta. - Trời ơi, thưa ngài, cái quan trọng của người làm quan là đức hạnh, sao ngài lại vu tiếng xấu cho con. Người đời thường nói: cái danh giá của người đàn bà là rất quan trọng, nếu mang tiếng thất tiết thì làm nhục cha mẹ, tổ tiên. - Con dâm phụ này to gan thật, ngươi dám bảo ta vu oan cho ngươi, quân bay đâu kẹp mười đầu ngón tay nó cho ta. - Trời ơi, thưa ngài, từ khi đẻ đến nay, con luôn luôn sống ngay thẳng thật thà, cho dù con chết làm ma không đầu con vẫn không khai. - Con dâm đãng! Mày cố tình ngoan cố không khai, ta cũng không sợ mày già mồm. Quân bay đâu, hãy mang đinh tre ra đây đóng vào mười ngón tay nó cho ta. - Trời ơi, con đau đến nỗi hồn xiêu phách lạc, chẳng khác gì xuống địa ngục Diêm vương. Không khai thì quan tra tấn, không chịu được đau đớn con phải gào lên kêu trời. Pháp đường ghép con vào tội giết người, con không oán hận, song vu cho con gian dâm thì con chết không nhắm mắt. - Vì sao ngươi lại đầu độc chồng, đầu độc bằng cách nào? - Con chê anh ấy xấu, cho nên đã bỏ thuốc độc vào đường cho anh ấy ăn. - Kẻ gian dâm là đứa nào? - Trời ơi, thưa ngài con không gian dâm thì sao con dám nhận. Dù có bị lăng trì con cũng không hủy hoại danh tiết. Quan thấy việc gian dâm là không có bằng chứng, chỉ kết luận là vì ghét chồng mà đầu độc chồng, chẳng cần gì thêm. Thế rồi quan lệnh thôi không tra khảo nữa, bắt điểm chỉ vào lời khai, rồi giam vào ngục, viết bản tường trình đệ lên tỉnh. Những người khách đưa dâu giận tím mặt, họ buồn rầu thấy quan giải Trinh Tú đi, họ trở về gặp Lý Thiệu Nho. Đúng lúc Lý Thiệu Nho bị cảm phong hàn, nằm trên giường không sao dậy được, nghe thấy được tin con gái bị oan ức rất lo lắng, nói: - Nhà họ Vương thường rất hay nói đến công bằng ngay thẳng, sao họ lại hồ đồ như thế, chẳng có căn cứ nào mà vu cáo cho Trinh Tú gian dâm. Lý Thiệu Nho hỏi vì sao con rể mình chết, thì chẳng ai biết, nghĩ rằng việc này làm sao mà gỡ được? Ông muốn lên huyện gặp quan, thì người đang ốm, hơn nữa lại phải ê mặt, cho rằng việc này quan cũng không sao giải quyết được? Lưu thị vợ ông, thấy con gặp oan, gào lên khóc lóc, chỉ giận rằng không bay ngay tới huyện để thăm con, trời lại sắp tối, suốt đêm ấy bà chỉ gào khóc.